Bài
viết của tác giả Phan Lạc Tiếp (cựu sĩ
quan VNCH) về Nguyên Phong, người đă dịch cuốn
"Hành Tŕnh về Phương Đông".
Xin
kính chuyển.
Phạm
Trinh Viên.
(Lời dẫn
nhập: Nhiều người đă say mê những sách của
Nguyên Phong dịch và phóng tác, say mê về nội dung cũng
như về văn phong của dịch giả. Từ một
nguồn internet không biết của thân hữu nào gửi,
chúng tôi nhận được bài này trong số những
điện thư nhận được
hằng ngày. Trộm nghĩ rằng nếu giữ
cho ḿnh th́ cũng uổng công người đă có ḷng gửi.
Xin cám ơn thân hữu đó và cũng xin phép
tác giả bài viết là PHAN LẠC TIẾP để phổ
biến tới độc giả của chúng tôi, mà cũng
là độc giả của ông. TLBT - TNAC -
ĐVĐĐ)
Cuộc di
tản bi thương ngày nào, đối với đại
đa số chúng ta, những người trong cuộc, không
thiếu những người vẫn coi như mới,
đêm ngủ vẫn kéo theo những h́nh ảnh hăi hùng, kinh
khiếp, tiếp nối bằng những kỷ niệm của
những ngày bỡ ngỡ trên đất tạm dung. Trong
những ngày vừa hoang mang lẫn mừng rỡ nhưng
cũng tràn đầy lo âu và buồn bă này, câu hỏi của
đa số người di tản chúng ta trước khi
đưa chân rời khỏi trại tỵ nạn, rời
xa những đồng bào, bè bạn thân quen là: làm sao chúng ta
liên lạc, t́m lại được nhau đây. Sống
làm sao đây trong cái “bể mênh mông” là nước Mỹ rộng
lớn này ? H́nh ảnh tiễn
đưa nhau bên cổng trại là những bàn tay nắm
những bàn tay giữa kẻ đi người c̣n ở lại,
có những mảnh giấy nhỏ viết vội vàng
“đây là số điện thoại của người bảo
trợ của tôi…”. Xe chuyển
bánh, mảnh giấy nhỏ ghi 10 con số, đôi khi nhoè
nhoẹt v́ những hàng nước mắt.
Trong nỗi
băn khoăn này, điển h́nh là trại tỵ nạn
Pendleton, hàng ngày ở cafeteria, nơi gần ngă ba đặt
tượng bàn tay khổng lồ xoè ra
đỡ, ôm ấp người tỵ nạn, nhóm anh em nhà
báo, nhà văn họp mặt. Nơi đây cũng được
coi như đài “Radio Catina Di Tản”, phát xuất những
tin tức, những tin đồn liên hệ đến mọi
vấn đề của cuộc sống mới trên đất
tạm dung. Đáng chú ư nhất là nhà báo Nguyễn
hoàng Đoan. Anh thăm hỏi mọi
người, anh xin những số điện thoại,
địa chỉ của những người sắp rời
trại. Và cũng chính nơi đây, một số bè
bạn trong làng văn, làng báo bàn bạc “phải có một
tờ báo để liên lạc với nhau chứ”. Trong số
những người này, cuối cùng được ra trại
và định cư tại thành phố gần trại tỵ
nạn nhất là San Diego, có vợ chồng Nguyễn hoàng
Đoan-Khánh Ly, Luật sư Phạm kim Vinh. Tờ Hồn Việt , như một nỗi khắc khoải
của người Việt phải đau khổ rời bỏ
quê nhà, nhưng ḷng không ngớt thương về đất
cũ, được ra đời ở đây. Ṭa soạn đặt trong một nhà in trong một
khu vực nhỏ, lúc ấy được coi như nằm
ở ngoại ô thành phố, khu Mission Gorge, của thành phố
San Diego. Tờ báo được đón
nhận thất nồng nàn. Chỉ một thời
gian sau, khi tờ báo đă có tiếng vang, đă được
đồng bào khắp nơi biết đến, một số
quần hùng từ các nơi tụ về góp mặt, trong
đó có nhà văn Lê tất Điều, họa sĩ
Văn Mộch, và nhiều bằng hữu bốn phương
gửi bài về hỗ trợ. Đó là tờ
báo tư nhân đầu tiên của người tỵ nạn,
ở cực Nam và cực Tây của nước Mỹ này.
Được mời gọi, trong những
ngày này, tôi cũng có đóng góp một vài bài như một
hành động thân hữu có mặt tại địa
phương. Nay sau hơn 30 năm tờ Hồn Việt
vẫn tồn tại do Ngọc hoài Phương làm chủ
nhiệm, chủ bút phát hành rộng răi trong cộng đồng
người Việt trong thế giới tự do.
Trong khi
đó, nơi được coi là đối đầu với
vùng Nam Cali, có tờ Đất Mới ở thành phố
Seattle, do anh Vũ đức Vinh, tức nhà văn Huy Quang,
nguyên Tổng Giám Đốc Nha Vô Tuyến Truyền Thanh của
VNCH đứng ra thành lập, được sự tài trợ
chính thức của chính quyền địa phương nhằm
mục đích thông tin và hướng dẫn người Việt
tỵ nạn sớm hoà nhập vào xă hội Hoa Kỳ. Lúc ấy
vào cuối năm 1975, gia đ́nh tôi đang chân ướt
chân ráo rời bỏ San Diego, đến định cư tại
thành phố biển hồ, Salt Lake City, do một số bạn
bè kéo gọi. Sau nhiều tháng dài cổ nhận những lá
thư từ chối của các hăng xưởng ở Cali,
nay có công việc tuy không hay ho ǵ, nhưng có lẽ nhờ chịu
khó và có chút khéo tay, tôi đang làm việc cho một hăng
đóng tàu nhỏ, loại tàu đi câu cá, chỉ trong 3 tháng
đă được tăng lương 3 lần. Giữa
khi ấy th́ anh Huy Quang gọi tới: “Lên đây đi ông.
Làm báo có lương, nhà cửa xin cũng dễ”, nhưng
tôi không dám thả mồi bắt bóng, nhất là bà xă tôi cũng
có việc làm trong một nhà may sang trọng trong thành phố
này. Hơn thế nữa, bạn bè cùng khoá khá thân ở
đây cũng đông, hàng ngày đi lại cũng rất ấm
cúng. Nghe anh Huy Quang nói thế, thích lắm, nhưng tôi
đành: “Xin cám ơn anh Huy Quang thôi”. Bù lại, tôi viết
cho tờ Đất Mới loạt bài về chuyến di tản
của tôi trên con tàu Thị Nại, HQ 502, với trên 5000
người rời Sài G̣n giữa đêm 29 rạng ngày 30
tháng 4 năm 1975. Khi ông Dương văn Minh ra lệnh cho
“anh em quân đội ở đâu ở đó, chờ bàn
giao cho quân đội giải phóng” th́ con tàu Thị Nại
chết máy, chật ứ những người tỵ nạn
c̣n nằm cửa sông Soai Rạp. Con tàu ra được
ngoài biển nhập vào đoàn tàu di tản là cả một
câu chuyện dài, thiên nan, vạn nan. Nhờ
đó hàng tháng tôi đều nhận được mỗi
kỳ 2 số báo Đất Mới. Tờ báo lúc này
có anh Thanh Nam làm tổng thư kư. Những
người viết chủ lực ngoài anh Huy Quang là chủ
bút, có chị Tuư Hồng, chị Trần lai Hồng, Nguyễn
thanh Trang, anh Nguyễn văn Giang, và sau này có thêm anh Mai Thảo
nữa. Thỉnh thoảng thấy có bài của
nhà văn, hoạ sĩ Vơ Đ́nh và thơ của anh Nhất
Tuấn. Dù những bài viết phải bỏ dấu
bằng tay, nhưng trang báo vẫn rất
sạch và mỹ thuật. Chẳng những thế, mọi
tin tức, dù xuất xứ từ đâu, đều
được toà soạn viết lại, tránh những
ngôn từ trái tai gai mắt phát xuất từ
Việt Nam. Cũng trên tờ báo này, lần
đầu tiên có bài viết từ trại tỵ nạn kư
tên Tưởng năng Tiến.
oOo
Ngoài những
bài viết, những tin tức liên hệ đến cuộc
sống của người tỵ nạn, tờ báo có hai mục
hầu như khác hẳn nhau, mang tên cùng một người
viết, đó là mục Trong Ḷng Điện Tử, và Hành
Tŕnh Về Phương Đông, kư tên Nguyên Phong. Lúc ấy,
cách đây gần 30 năm, điện tử là một lănh
vực c̣n rất mới mẻ, c̣n trong ṿng khai phá, t́m ṭi, dự
đoán, xa lạ. Giữa lúc ấy th́ Nguyên
Phong đă tŕnh bày những hiểu biết sâu sắc với
những thông tin trong ḷng điện tử. Vói tôi, tôi mù tịt, chẳng hiểu ǵ, nhưng những
người bạn của em tôi đang ngày đêm học hỏi
về điện tử th́ hết lời khen ngợi những
bài viết này. Đó là một lănh vực
mới của những người trẻ, của những
ngày trước mặt. Một lănh vực
hầu như chỉ t́m thấy vừng đông rạng rỡ
phát xuất từ thế giới tây phương.
Trong khi
đó, cũng vẫn cùng một người viết, Nguyên
Phong, với loạt bài dịch thật lạ lùng, tràn ngập
sự huyền bí trước một phái đoàn khoa học
lỗi lạc phát xuất từ những trường
đại học danh tiếng tây phương, đi t́m những
điều bí ẩn của đông phương ở những
năm cuối thế kỷ thứ 19. Lúc
đó nước Nga chưa bị Cộng Sản cướp
chính quyền. Nước Tàu cón là miếng
mồi ngon để các quốc gia tây phương sâu xé.
Nói chi đến nước Viêt Nam chúng ta,
nơi mới bị người Pháp đặt nền thống
trị. Đó là cuốn Journey To The East của Blaird
Spalding, nhà xuất bản Adyar, in từ năm 1924 tại Ấn
Độ, Nguyên Phong đă dịch lại nhan đề là
Hành Tŕnh Về Phương Đông, đăng từng kỳ
trên nguyệt san Đất Mới. Tôi đă say mê theo dơi loạt bài này. Bây giờ hăy cùng nhau
đọc lại vài đoạn trong cuộc đối
thoại lạ lùng giữa vị đạo sư Ấn
Độ với phái đoàn khoa học tây phương
dưới đây:
“Trái
đất quay quanh trục của nó với vận tốc
1600 cây số một giờ ở giữa đường
xích đạo.
Nếu quay chậm 10 lần th́ ngày sẽ dài gấp 10 lần
và dĩ nhiên sức nóng của mặt trời cũng gia
tăng gấp 10 lần. Thế th́ cây cối,
sinh vật đều bị thiêu sống hết c̣n ǵ.
Nếu cái ǵ chống được sức nóng th́ cũng
chết v́ lạnh v́ đêm cũng dài gấp 10 lần và sức
lạnh cũng tăng lên 10 lần kia
mà. Ai đă làm cho trái đất quay trong một
điều kiện tốt đẹp như thế?
“Mặt
trời nóng khoảng 5500 độ bách phân. Quả địa
cầu ở đúng một vị trí tốt đẹp
không xa quá và cũng không gần quá. Vừa
vặn đủ để đón nhận sức nóng của
mặt trời.”
“Trục của
quả đất nghiêng theo một tà
độ là 23 độ. Nếu trái đất
đứng thẳng, không nghiêng bên nào th́ sẽ không có thời
tiết bốn mùa. Nước sẽ bốc hơi hết
về hai cực và đông thành băng giá cả”.
“Babu yên lặng nh́n mọi người. Không ai có
thể ngờ nhà chiêm tinh Ấn Độ lại có thể
sang sảng chứng minh một cách khoa học và hùng biện
trước một cử toạ toàn những khoa học
gia nổi tiếng nhất của Âu Châu”
“Babu quay
sang nh́n giáo sư Allen, một nhà sinh vật học của
trường Havard :“ Nếu toán học
có vẻ trừu tượng quá hăy thử quan sát thiên nhiên
dưới cái nh́n của nhà Sinh Vật Học xem sao: “Sự
sống không có sức nặng hay bề đo mà mạnh mẽ
làm sao? Bạn hăy nh́n một rễ cây non nớt,
mềm yếu, vậy mà nó có thể soi nứt một tảng
đá cứng rắn. Sự sống
chinh phục không khí, đất, nước. Nó thống
trị mọi nguyên tố, nó bắt buộc vật chất
tan ră rồi lại kết hơp thành các h́nh thể mới”
“Chắc
chắn trong 25 năm cuối của thế kỷ này sẽ
có nhiều thay đổi và có những cố gắng giúp
cho sự tiến bộ của nhân loại, giai đoạn
này rất quan trọng.”
“Các
ông là người Âu, tôi xin dẫn chứng bằng lịch
sử Âu Châu cho dễ hiểu. Các ông có thể coi nó là sự trùng hợp
ngẫu nhiên cũng được: Năm 1275, Roger Bacon
phát động phong trào phục hưng văn hoá rồi suốt
100 năm sau toàn thể Âu Châu đều thay đổi.
Năm 1375, Christian Rosenkreuz phổ biến nền văn hoá
này khắp từng lớp dân chúng, đưa Âu Châu thoát khỏi
nền tảng hắc ám của thời kỳ Trung Cổ.
Năm 1275 và 1375 chả là 25 năm chót của thế kỷ
13 và 14 hay sao?” Và “Việc phát sinh ra máy in, ấn loát vào
năm 1473 và các cao trào nghiên cứu khoa học vào năm
1578, sự dùng Anh ngữ thay v́ Latin để phổ biến
kiến thức khoa học của Francis Bacon. Hai việc này xẩy ra vào 25 năm cuối của
thế kỷ 15 và 16. Việc đ̣i san bằng giai cấp,
dẹp chế độ Bảo Hoàng vào năm 1675 và cuộc
cách mạng Pháp 1789 đều là những biến cố xẩy
ra trong ṿng 25 năm cuối của thế kỷ 17 và 18”.
“Năm
1875 đánh dấu một bước tiến quan trọng,
đó là sự phát triển khoa học văn minh cơ giới
cùng thuyết “Tiến Hoá” của Darwin và phong trào Thiên Chúa
giáo tự do. Từ đây bắt đầu
một cuộc tranh chấp giữa tinh thần và vật
chất. Có hai mănh lực rất mạnh phát xuất từ
hai đầu tinh tú đối cực gây nên phong trào Duy Tâm
và Duy Vật. Thế kỷ 20 bắt đầu với sự
phát trỉển cực thịnh của thuyết Duy Vật.
Con người sẽ bị thúc đẩy vào các sự kiện
vật chất, họ sẽ gặp những thử thách
mà nhu cầu bao tử, khoái cảm xác thân tranh đấu với
nhu cầu tâm linh một cách mănh liệt. Duy
Tâm sẽ phát triển mạnh mẽ và phổ biến sâu rộng
để thúc đẩy sự tiến hoá tâm linh. Cuối thế kỷ 20 phong trào Duy Vật sẽ
xụp đổ, hiện tượng nghiên cứu các giáo
lư bí truyến sẽ bắt đầu.”
oOo
Tôi nghĩ
rằng khi đọc đến những hàng chữ trên,
quư vị độc giả không khỏi bàng hoàng, tự hỏi : Thật sao? Cuốn
sách trên đă viết như thế sao? Đúng
thế. Nguyên Phong đă dịch như thế,
(Hành Tŕnh Về Phương Đông từ các trang 47 đến
trang 62,) mà chúng tôi lược thuật lại đúng
như thế. Và trở lại với thời điểm
cuối thập niên 70, với đa số người tỵ
nạn chúng ta th́ con số 75 hay năm 1975 c̣n quá sâu đậm,
nặng nề. Năm 75 đă đánh dấu một biến
cố lịch sử đau thương không phải chỉ
dành cho Việt Nam Cộng Hoà mà c̣n là một biến cố
đau đớn cho Hoa Kỳ và cả Thế Giới Tự
Do nữa. Ngày mà khối Cộng Sản tưng
bừng reo vui khi lá cở đỏ của chúng tung bay trên
toàn lành thổ Việt Nam. Với sự cai
trị tàn độc của Cộng Sản, những mảnh
đất nào đă lọt vào tay họ không có mảy may hy
vọng thoát ra. Con số 75 đă làm tôi đau đớn,
kinh hoàng. Dù chẳng muốn, cá nhân tôi cũng
như hầu hết những người trong cùng lứa
tuổi đă bị cuốn hút vào cuộc chiến tàn khốc
này với kết cục thật vô cùng ê chề. Vậy mà thời điểm ấy đă
được tiên tri, được ghi lại như thế
cả trăm năm. Nhưng cũng vẫn lời
tiên tri ấy nói rằng: “cuối thế kỷ 20 phong trào
Duy Vật sẽ xụp đổ”. Thật
chăng? Làm ǵ mà tin được.
Cộng Sản như một con bạch tuộc, những
cái ṿi chằng chịt của chúng bủa ra đến
đâu, chúng hút chặt cứng ở đó, không thể
thoát ra. Từ 1975, thời gian rơi rụng mỏng dần,
25 năm c̣n lại của thế kỷ này, mong ǵ con bạch
tuộc kia nhả bớt những miếng mồi mà chúng
đă hút chặt, bám vào. Càng nghĩ càng thêm vô
vọng. Vậy mà đầu thập niên 90, như một
huyền thoại, thành tŕ đầu năo cộng sản Nga
Sô và những nước vệ tinh của cộng sản ở
Đông Âu tan ră. Tan ră trong hoà b́nh và thật là mau chóng. Bức tường Bá Linh được san bằng.
Người Đông và Tây Bá Linh sau bao năm
chia ĺa đă ôm nhau đầm đ́a những giọt lệ
mừng vui. Dù đất nước Việt chúng ta
chưa thoát khỏi gông cùm cộng sản, nhưng quả
thật chúng ta có quyền mừng vui, và tràn đầy hy vọng
và càng thấy những điều Nguyên Phong dịch trong cuốn
Hành Tŕnh về Phương Đông đúng là những lời
tiên tri, càng lúc càng có những biến cố làm sáng tỏ những
lời tiên tri đó . Do đó tôi mong mỏi,
ao ước, t́m gặp Nguyên Phong. Người ấy ở
đâu, sao anh lại t́m được cuốn sách này, dịch
và phổ biến được những lời linh ứng
lạ lùng kia. Làm sao t́m
được người đó? Tất nhiên tôi có hỏi
anh Vũ đức Vinh, báo Đất Mới, anh chỉ
cười cười và nói: “Đương sự vẫn
ở đây. Môt người rất trẻ,
nhưng khiêm tốn, hầu như không muốn gặp ai.
Có thể đến một lúc nào đó đủ
duyên th́ ông sẽ gặp được anh ta.” Nghe thế, tôi biết không thể làm ǵ hơn,
nhưng trong sâu thẳm của ḷng tôi, tôi vẫn mong mỏi
được gặp gỡ người này.
oOo
Như
chúng ta đă biết, thảm nạn thuyền nhân đă xẩy
ra sau khi miền Nam sụp đổ, và trong sự ngẫu
nhiên t́nh cờ một nạn nhân của thảm trạng
này là nhà văn Nhật Tiến, một người bạn
học cũ của tôi từ thời trung học. Từ
những lá thư viết từ trại
tỵ nạn Thái Lan mà chúng tôi nhận được
đă là nguyên nhân thành lập Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người
Vượt Biển, do GS Nguyễn hữu Xương, một
người bạn khác của chúng tôi làm chủ tịch. Từ việc kêu cứu lúc đầu, sau đă
chuyển thành các công tác đem tàu đi Vớt Người
Biển Đông. Cùng với những tổ
chức quốc tế, một công tác đầy nhân đạo,
cụ thể nên đă được cộng đồng
người Việt chúng ta khắp nơi nhiệt t́nh hỗ
trợ. Để quảng bá công tác này,
cá nhân chúng tôi thường thay mặt GS Nguyễn hữu
Xương đi đến nhiều nơi để tŕnh
bày, giải đáp về hoạt động của Uỷ
Ban. Tất nhiên với những giao t́nh sẵn có, tờ
Đất Mới của anh Vũ đức Vinh đă nồng
nhiệt cổ vơ, và chúng tôi đă có một cuộc gặp
gỡ bằng hữu tại Seattle, do thi sĩ Vũ quanh
Hân đứng ra tổ chức, trong ngôi chùa của thầy
Thích minh Chiếu trụ tŕ. Thầy Thích minh
Chiếu, gốc nhà binh, xuất thân từ trường Vơ
Bị Quốc Gia Đà Lạt, cùng khoá với anh Phạm Hậu.
Do đó, anh Phạm Hậu, một người bạn khác
của chúng tôi, một thời cũng đă làm Giám Đốc
Nha Vô Tuyến Truyền Thanh, rất sốt sắng làm
đầu cầu, dàn xếp, đưa đón và cùng các anh
em trong tờ Đất Mới tích cực hỗ trợ
cho cuộc gặp gỡ này. Trong buổi nói chuyện này tại
chùa, người đến dự không đông lắm, chỉ
là một số bằng hữu, những người có
liên hệ xa gần với tờ Đất Mới và ban
trị sự của chùa mà thôi. Khi tôi chấm dứt phần
thuyết tŕnh cùng lúc trên màn ảnh TV, h́nh ảnh chiếc
ghe tỵ nạn ch́m dần xuống ḷng biển mênh mông th́
thầy Thích minh Chiếu đứng lên ôm lấy tôi và nhạt
nhoà nước mắt. Thầy nghẹn ngào nói
: “ Quư hoá quá. Dù xây chín đợt phù đồ.
. .” Và thầy sai một thầy tiểu đưa cho
tôi một ly nước và tiếp tục nói
: “Đây là một ly sâm, xin tặng ông, ông uống
đi cho lấy sức. Xin các ông chân cứng
đá mềm, hăy gắng công, gắng sức để công
tác Vớt Người Biển Đông thêm kết quả”.
Có một số vị góp tiền cho, nhưng quan trọng
nhất là có một vị cao niên sau chót đứng lên và
nói: “Công việc của quư vị đẹp đẽ quá,
cần thiết và đúng lúc quá. Quư vị cần
ǵ nơi chúng tôi, chúng tôi xin hết sức”. V́ những
vấn đề liên hệ đă được nói chi tiết
trong bài thuyềt tŕnh, nên tôi bỗng nhớ đến tờ
Đất Mới, tờ báo xuất bản ở nơi
này, nhớ đến Nguyên Phong, nên tôi nói dù rất thật
ḷng nhưng lại có chút đùa vui “Đến đây chúng
tôi chỉ muốn gặp được người dịch
loạt bài Hành Tŕnh Về Phương Đông, anh Nguyên Phong
mà thôi”. Vị cao niên này bỗng cười vui
:“ Dễ quá. Nguyên Phong là con trai lớn của chúng tôi.
Hiện Nguyên Phong đang làm việc ở Los Angeles, khá gần
ông. . .” Tôi mừng rỡ
khôn cùng.
Khi trở
lại San Diego, chỉ mấy ngày sau là cuối tuần, anh
chị Nguyên Phong và cả 2 cháu, con anh chị đă từ
Los đến thăm gia đ́nh chúng tôi. Để đón
anh, chúng tôi nấu một nồi phở v́ ngoài những cái
ngon, cái tiện do phở mang lại mà Nguyễn Tuân và Vũ
Bằng đă hết lời ca ngợi, phở c̣n có một
đặc tính mới được ghi nhận sau biến
cố 1975 nơi hải ngoại là “món ăn đợi
khách”. Nồi phở để đó trên bếp, khách v́ bất
cứ lư do ǵ như kẹt xe không đến
đúng giờ như dự liệu, không sao. Khách đến
lúc nào ăn cũng vẫn ngon. Như một người em trong gia đ́nh, anh chị
Nguyên Phong rất xuề xoà và vui vẻ ngay từ phút đầu
bước chân vào nhà. Vừa ăn
vừa tṛ chuyện, và tôi bỗng phát hiện ra anh chị
Nguyên Phong và cả hai cháu chỉ ăn bánh phở mà bỏ
lại thịt trong bát. Thấy thế tôi hỏi, anh Nguyên
Phong cho hay: “Thường th́ gia đ́nh em ăn
chay, nhưng khi đi đâu th́ tuỳ hoàn cảnh, không câu
nệ. Gặp ǵ ăn nấy.” Thấy
thế, chúng tôi mang mấy đĩa xôi trên bàn thờ xuống,
một bầu không khí trên bàn ăn tưng
bừng đổi khác. Chúng tôi cười vui tiếp tục
tṛ chuyện và chúng tôi biết rằng anh Nguyên Phong, tên thật
là Vũ văn Du, sinh năm 1950, là con trưởng trong một
gia đ́nh đông con. Thân phụ nguyên là một vị không
xa lạ trong y giới, cụ là một dược sĩ,
đồng thời c̣n là một người có tâm, có tài và
đă đóng góp rất cụ thể với Đại Học
Vạn Hạnh. Các em anh, dù kẹt lại việt Nam một
thời gian, nhưng cũng đă sang được Hoa Kỳ
và hoàn tất văn bằng về y khoa. Nhân được
biết và liên hệ đến công tác Vớt Người
Biển Đông, anh Nguyên Phong cho hay: “Hàng năm ít nhất một
lần, anh em trong gia đ́nh em họp mặt. Thay v́ mua quà tặng nhau, em bảo, không cần, hăy
dùng số tiền này gửi về Uỷ Ban Báo Nguy Giúp
Người Vượt Biển.” Do đó suốt mấy
năm sinh hoạt, Uỷ Ban đều nhận được
những chi phiếu trên dưới 4 con số từ gia
đ́nh họ Vũ này. Và cũng hàng năm, tôi phải thảo
một lá thư riêng cho Giáo Sư Nguyễn
hữu Xương, chủ tịch Uỷ Ban kư để
trân trọng gửi đến gia đ́nh họ Vũ.
Trở
lại với cuốn Hành Tŕnh Về Phương Đông,
tôi không quên nhắc đến những điều trùng hợp,
tiên tri trong cuốn sách.
Tôi có hỏi anh “Nguyên nhân nào đă khiến chú
t́m ra tập sách này để dịch ra và phổ biến
như thế?” Ngần ngại khá lâu, anh Nguyên Phong cho
biết: “Như anh chị biết, em là một người
khoa học. Trong thời gian trung học, phải
nói là em rất coi nhẹ triết lư Đông phương.
Như những người lớn lên trong một quốc
gia chậm tiến, em ngưỡng mộ nền học
thuật Tây phương, không chỉ ở lănh vực khoa học,
mà em rất khao khát t́m hiểu những triết gia Âu Châu.
Nhưng khi đă đi sâu vào sự t́m hiểu em thấy nền
tríết học Tây phương không giải đáp hết
những nan đề của con người, của khoa học,
nhất là trước sự khủng hoảng xung đột
giữa Duy Tâm và Duy Vật hiện nay. Từ
đó em quay về t́m hiểu những triết thuyết của
Đông phương. Nói ra dài lắm, nhưng em thấy
mọi việc, như Đức Phật nói: Mọi sự
phát xuất từ tâm. Đặc biệt sau khi em vừa
tŕnh xong luận án Tiến Sĩ th́ cũng
là lúc Miền Nam của chúng ta thất thủ. Trong khi đó th́ thầy mẹ em, các em của em
đều kẹt lại. Ḷng em rối
như tơ ṿ. Biết chẳng thể làm ǵ
được lúc này, những ngày cuối tuần và những
ngày nghỉ lễ, em lên núi, với một chút thức ăn nhẹ, em ngồi thiền. Có khi cả tuần lễ chỉ uống nước
lạnh xuông. Với một tâm hồn thư
thản, và một thân h́nh nhẹ tênh, em nhiều lúc như
thấy được thật rơ những ư nghĩ, những
hoàn cảnh của những người thân yêu và em yên tâm
chờ đợi. Chờ đợi một
sự nhiệm mầu tốt đẹp sẽ đến.
Tất nhiên trong thời gian ấy em đến thư viện rất thường. Một hôm em đi qua khu sách về tôn giáo, em thấy
một cuốn sách nhỏ rơi ở lối đi, em nhặt
lên, để lên giá sách, nhưng cũng không nh́n xem đó là
cuốn sách ǵ. Đi một ṿng quay lại, lại thấy
cuốn sách kia rơi trên lối đi. Em lại nhặt lên và có liếc qua tên cuốn
sách trước khi xếp nó vào giá. Sau cả một
buổi trong thư viện, khi mọi
người đă văn, ra về, em đi qua khu sách cũ, lại
thấy cuốn sách kia nằm giữa lối đi. Em nhặt lên. Cuốn sách mỏng, nhan đề
Journey To The East của Baird Spalding, do nhà
xuất bản Adyar in năm 1924 tại Ấn Độ.
Cuốn sách cũ quá, nhưng bỗng nhiên em không muốn
buông ra, em mượn cuốn sách này đem về đọc
chơi. Nhưng lạ thay, suốt đêm ấy
cuốn sách đă chinh phục em, em đọc một mạch,
rồi lại đọc lại. Những điều
nói trong cuốn sách như vẽ ra cho em một vùng trời
vừa huyền bí, vừa trong sáng, lại vừa như
khơi dậy từ sâu thẳm của em niềm tự
hào của nền triết học Đông Phương. Chính
lúc ấy em gặp các anh Thanh Nam và Vũ đức Vinh với
ư định ra tờ Đất Mới. Các
anh ấy mời em phụ trách mục giải đáp khoa học.
Em nhận lời ngay với loạt bài Trong Ḷng Điện
Tử. Cùng lúc em dịch cuốn The Journey To
The East- Hành Tŕnh Về Phương Đông. Em đưa cho anh Thanh Nam xem, anh Thanh Nam thích quá, bảo
em dịch tiếp đi. Thế là trên tờ Đất
Mới em có hai mục như đối chọi nhau,
nhưng cùng kư tên Nguyên Phong, Một Làn Gió Mới. . .”
Sau chuyến
gặp gỡ này chúng tôi liên lạc với nhau luôn và tờ
Đất Mới đă không c̣n ngân khoản để xuất
bản nữa, nhưng ám ảnh của loạt bài kia vẫn in sâu đậm trong ḷng tôi. Tôi nói
với anh Nguyên Phong: “Phải góp lại và in ra đi, bỏ
mất phí lắm”. Anh Nguyên Phong ngần ngại
măi, sau cùng tôi đề nghị gửi loạt bài này lên cho
người bạn tôi, anh Lê Đ́nh Điểu, báo Người
Việt “xem có thể th́ in ra cho vui”. Báo
Người Việt nhận được, nhưng để
rất lâu, cả năm sau mới in ra. Kỳ
in đầu tiên là năm 1987. Ai cũng
biết rằng sách in ra ở hải ngoại ít khi
được tái bản lần thứ hai. Vậy mà trong lặng lẽ, độc giả bốn
phương đă đón nhận cuốn sách này thật là
nồng nhiệt. Cho đến năm
1993, cuốn sách này đă được in ra đến lần
thứ sáu. Và bên cạnh cuốn sách này, có những cuốn
sách khác lần lượt xuất hiện do Nguyên Phong dịch
hoặc phóng tác, mang nội dung, cảnh trí của những
vùng núi non thâm sâu, huyền bí, theo bước chân của những
người đi về Phương Động, đặc
biệt là Tây Tạng, để t́m thầy, học đạo.
Cuốn
Hoa Sen Trên Tuyết, phỏng dịch từ cuốn The Mani
Stones của Alan Havey, một BS Y Khoa tốt nghiệp từ
Đại Học Michigan. Hoa Trôi Trên Sóng Nước, dịch
từ cuốn Journey In Search Of The Way của Satomi Myodo,
người Nhật Bản. Huyền Thuật Và Đạo
Sĩ Tây Tạng, phóng tác từ cuốn sách Pháp văn, nhan
đề Mystiques Et Magiciens Du Thibet của bà Alexandra David
Beel. Bên Rặng Tuyết Sơn, phóng tác từ cuốn sách của
Swami Amar Jyoti, người Ấn Độ. Ngọc Sáng
Trong Hoa Sen, phóng tác từ cuốn The Wheel Of Life của John
Blofeld, người Anh. Và những cuốn sách
khác nữa của Nguyên Phong, mang cảnh trí và nét huyền
bí của Đông phương lần lược xuất hiện
đều đặn. Chỉ với những đầu
sách nói trên thôi, trên 2000 trang sách, do những người Anh,
người Pháp, người Nhật, người Mỹ
và người Ấn, nói về những kinh nghiệm của
họ khi tiếp xúc với Đông Phương, với Phật
Giáo. Không biết có phải đây là một chứng minh mà
trong cuốn Hành Tŕnh Về Phương Đông đă nói,
như trên chúng tôi đă dẫn: “Cuối thế kỷ 20
phong trào Duy Vật sẽ xụp đổ, hiện tượng
nghiên cứu các giáo lư bí truyền sẽ bắt đầu”.
Nhưng trong phần phụ lục của cuốn Ngọc
Sáng Trong Hoa Sen, nơi trang 356, tác giả John Blofeld đă viết:
“Lành thay, lành thay, giáo pháp của đấng Thế Tôn
đă được vun trồng một cách tốt đẹp
tại phương Tây”. Và một cách cụ thể hăy nh́n
vào cộng đồng người Việt ở Nam Cali,
chúng ta có hàng trăm ngôi chùa, khó có ai có th́ giờ đi
thăm cho hết trong một kỳ nghỉ hàng năm, vài
tuần. Có những ngôi chùa nhỏ bé,
khiêm tốn được tạm dựng trong một
căn nhà. Có những ngôi chùa xây cất uy nghi,
với đầy đủ tượng Phật, tháp
chuông, vườn cảnh không kém ǵ những cảnh chùa có
tiếng tăm ở quê nhà. Và hơn thế
nữa, có những Trung Tâm Tu Học chiếm cứ cả
một cánh rừng mênh mông mấy trăm mẫu đất.
Bước vào đây như xa lánh hẳn xă hội
tây phương, như một góc Việt Nam riêng biệt.
Đồi núi chập chùng, tiếng chuông ngân
toả giữa tiếng tụng kinh, giảng kinh bằng
tiếng Việt cũng như tiếng Anh. Có những
khoá tu học với hàng ngàn người tham dự, với
lệ phí khá cao, mà đa số là những người bản
xứ, người Mỹ. Trong đó không thiếu những
người nổi tiếng, có danh vị trong xă hội, những
tài tử điện ảnh. Ba mươi năm trước
đây, ai dám nghĩ cả mấy chục ngàn người,
ngồi kín cả một sân vận động, bỗng
cùng cúi rạp ḿnh xuống, (năm vóc sát đất, tứ
chi và đầu sát đất), thật yên lặng trong nhiều
phút để đón một ông già Á Đông, áo vàng hở
vai, lù khù đi đội dép mỏng, vừa đi vừa
cúi đầu đảnh lễ bốn phương. Đó là một nghi lễ cực kỳ cung kính của
tôn giáo Tây Tạng dành cho Đức Lạt Ma khi ngài xuất
hiện.
oOo
Song song với
những hoạt động của những tu sĩ đi
hoằng hoá giáo pháp của Đấng Thế Tôn, những
cuốn sách của Nguyên Phong, tên tuổi của tác giả
trong lặng lẽ đă được rất đông
người biết đến và ái mộ. Ái
mộ không chỉ như một tác giả uyên thâm, mà c̣n hàm
chứa h́nh bóng của một nhà tu hành, một vị đạo
sư. Các sách của Nguyên Phong c̣n được nhiều
người đọc vào băng, thu vào
dĩa, hoà vào nhạc và phổ biến rất trân trọng
và rộng răi. Một trong những “trung tâm” này là chị
Đăng Lan tại Úc. Trong dip gặp
chị đến San Diego, chị có tặng chúng tôi mấy
cuốn băng đọc sách của anh Nguyên Phong, nhưng
chị nói “ Em muốn được gặp
ông Nguyên Phong để xin phép mà không biết ông ấy ở
đâu”. Chúng tôi có chuyển ư nguyện này tới anh Nguyên
Phong, nhưng anh Nguyên Phong chỉ cười và nói: “Không cần
anh ạ. Chỉ là cái duyên, mỗi người trong chúng ta,
tùy theo hoàn cảnh mà chuyển tải lời dạy của
Đấng Như Lai thôi.”. Nguyên Phong không quan tâm đến danh, đến lợi.
Ngay cả tác quyền những cuốn sách của
anh in ra anh cũng không nghĩ đến. Mỗi khi có sách mới, nhà xuất bản tùy khả
năng, họ gửi biếu tác giả một số sách.
Những cuốn sách ấy tác giả lại gửi biếu
bạn bè, trong đó có gia đ́nh tôi.
Thường th́ chúng tôi nhận được một thùng
sách khoảng mươi cuốn, trong đó mấy cuốn
có chữ kư tặng, số c̣n lại th́ tôi cũng tùy nghi,
biếu bè bạn thân quen, hay đem lên chùa để ai thích
th́ thỉnh về đọc. Một năm
trung b́nh anh Nguyên Phong có 2 cuốn sách được in, rất
đều hoà như thế. Được
hỏi, anh nguyên Phong cho hay, hàng ngày, sau giờ đi làm về,
anh ngồi vào máy, viết và dịch. Chưa
xong nhà xuất bản đă gọi, đă nhắc, đă vẽ
b́a cho cuốn sách rồi. Cứ thế,
những cuốn sách của Nguyên Phong in thật đẹp
bay đi bốn phương trời. Những lời
dạy của Đấng Như Lai qua những trang sách của
Nguyên Phong đă thấm đượm tới những ai,
làm nhẹ được những nhọc nhằn, phiền
muộn của thế nhân tới mức độ nào,
không ai lường được. Những
hàng chữ ấy, với tôi, tôi coi như những gịng suối
mát, êm ả chảy đi, thấm đượm, nuôi sống
bao nhiêu cây trái của cuộc đời này. Con suối
không cần ai biết mà vẫn cứ miệt mài tuôn chảy.
oOo
Mối
giao t́nh giữa chúng tôi mỗi lúc mỗi thêm sâu đậm. Trong niềm khát ngưỡng
t́m hiểu những lời dạy của Đấng
Như Lai, anh Nguyên Phong có sách mới, hay những tài liệu
mới, anh không bao giờ quên gửi cho gia đ́nh chúng tôi
và cả các em của chúng tôi nữa. Đáng chú ư nhất là
Thông Điệp của Những Người Anh, trích từ
bài Elder Brothers Warning của Alan Ereira, nguyên Phong đă dịch
ra Việt ngữ và giới thiệu như sau:
“Tháng 10
năm 1993, đài BBC tại Luân Đôn và đài PBS Hoa kỳ
đă cho phát h́nh một tài liệu đặc biệt ghi lại
nếp sống của một bộ lạc thiểu số
tại Nam Mỹ. Cuốn phim này đă gây chấn động
dư luận thế giới và hiện là một đề
tài được bàn căi rất nhiều trong giới khảo
cổ, môi sinh và nhân chủng học. Lần
đầu tiên được tŕnh chiếu trong kỳ
đại hội tôn giáo hoàn cầu tại Chicago, nó đă
gây xúc động lớn cho toàn thể cử toạ.
Cuốn phim ấy đă cho chúng ta thấy bên cạnh thế
giới được gọi là văn minh là thế giới
của chúng ta, trên trái đất này c̣n có một nền
văn minh khác của người Kogi sống trên giăy núi
Sierra ở nam Mỹ. Họ sống biệt lập với
thế giới của chúng ta, rất đơn giản
nhưng thật hoà b́nh và hạnh phúc, đặc biệt họ
chỉ ăn chay, không sát sinh. Tuy sống cách biệt
nhưng họ vẫn có khả năng theo
dơi và quan tâm đến chúng ta, đặc biệt là quan tâm
đến sự an nguy của quả đất này do những
hành động vô ư thức của chúng ta tiếp tục
gây ra. Bởi thế, đă đến lúc họ
phải lên tiếng cảnh cáo chúng ta trước khi quá muộn.
Họ nói: “Nhân loại sắp bước vào một thảm
hoạ rất lớn mà từ trước tới nay
chưa hề sẩy ra (…). Chúng ta đều là con cùng một
mẹ nhưng tiếc là các em đă không chú ư đến
điều này (…). Mẹ của chúng ta là ai?
Chính là trái đất này, ḷng mẹ chính là biển cả và
trái tim của mẹ là những dăy núi cao
cả có mặt khắp nơi. Này các em, đốt
rừng, phá núi, đổ đồ ô uế xuống biển
chính là chà đạp lên thân thể của mẹ đó.
Mẹ là nguồn sống chung và con người không thể
sống mà không có mẹ, nếu trái đất bị huỷ
hoại th́ chúng ta sẽ sống ở đâu
?”(…) Làm sao các em có thể tự hào rằng
ḿnh đă văn minh khi nhân loại và mọi sinh vật mỗi
ngày mỗi đau khổ nhiều hơn xưa? Làm sao
có thể nói rằng nhân loại đă tiến bộ khi con
người càng ngày càng thù hận, chỉ thích gây chiến
tranh khắp nơi?”.
Cuốn
băng h́nh và bài thuyết tŕnh của kư giả Allan Ereina là
kết quả của phái đoàn kư giả của đài
BBC tại Luân Đôn và PBS tại Hoa Kỳ, sau 3 ngày
được phép sinh hoạt với người Kogi. Phái
đoàn này rời rặng núi Sierra vào tháng hai năm 1993, và
người Kogi đă ân cần nhắc
nhở: “Xin các ông hăy mang thông điệp này gửi ra cho thế
giới bên ngoài để nhân loại biết rằng t́nh
trạng đă nguy kịch lắm rồi. Nếu họ
không chịu thức tỉnh th́ đợi đến bao giờ
đây?”.
Theo
đúng lời yêu cầu, Allan Ereira đă mang cuốn phim
“Elder Brother’s Warning” trong đại hội tôn giáo họp tại
Chicago vào tháng 9 năm 1993.
Cuốn phim này cũng được tŕnh chiếu trên các
băng tần của đài truyền h́nh BBC tại Anh và
PBS tại Hoa Kỳ. Và anh Nguyên Phong đă gửi cho tôi bài
viết của kư giả Allan Ereira cùng với cuốn phim
tài liệu này. Càng xem, càng đọc bài viết về những
lời nhắc nhở của người Kogi, tôi càng thấy
rằng những điều người Kogi biết rất
chính xác về những lợi dụng quá đáng của
loài người, làm ô nhiễm môi sinh, làm huỷ hoại môi
trường sống không chỉ đối với loài
người, mà với cả muông thú, cỏ cây. Nếu những
điều này đă đúng th́: “loài người sắp
bước vào một thảm hoạ rất lớn từ
trước đến nay chưa hề xẩy ra” chắc
cũng sẽ đúng. Vậy thảm hoạ
đó là ǵ, khi nào sẽ diễn ra? Đó
là nỗi ám ảnh không rời trong ḷng tôi. Rồi biến
cố 911 ào đến là kết quả của những hận
thù giữa con người với nhau. Rồi sóng thần
Sunami từ biển đổ vào bờ biển Thái Lan và Ấn Độ, cuốn đi nhà cửa
và hàng trăm ngàn người, giữa lúc họ đang an
hưởng sự phong phú của thiên nhiên, của cuộc
sống. Rồi băo tố và cuồng phong Katrina ập vào bờ
biển nước Mỹ, gây nên cảnh lụt lội rộng
lớn cuốn đi bao nhiêu nhà cửa, ruộng vườn,
tàu bè, xe cộ. Tai biến đổ lên
nước Mỹ, vùng đất tượng trưng cho sự
giàu mạnh và văn minh nhất của nhân loại, như
một cảnh báo cụ thể, một sự trừng phạt
trước sự hung hăng, kiêu mạn
về “văn minh” của con người.
Phải
chăng đó là những thảm hoạ mà “Những Người
Anh” đă cảnh báo.
Như thế đủ chưa, hết chưa hay hăy c̣n có
những tai hoạ nào sẽ diễn ra
trong tương lai? Hăy nh́n những đoàn xe
nối đuôi nhau bất tận trên xa lộ, mỗi xe ít
nhất là 5 chỗ ngồi, thường chỉ có 1 người
trong xe. V́ muốn có tự do tuyệt đối, tiện
nghi tối đa, con người đă phung phí tài nguyên của
quả đất như thế nào? Những tờ báo hàng
ngày hàng trăm trang, với rất nhiều bài viết về
những lănh vực khác nhau, thường chỉ được
người đọc xem qua loáng thoáng ở những phần
ḿnh ưa thích. Các mục khác, hầu như cả
tờ báo c̣n nguyên vẹn, được liệng vào thùng
rác. Để có những trang báo ấy,
bao nhiêu cánh rừng đă bị khai quang. Và ai cũng biết, rừng cây không chỉ cho
chúng ta gỗ, lá, mà chính rừng cây là nơi sản xuất
dưỡng khí làm tươi mát, nuôi sống cho cuộc
đời này. Rừng là lá phổi của
muôn loài trên hành tinh này. Mới chỉ thoáng nghĩ
như thế, chúng ta càng kinh hoàng trước những lời
nhắc nhở kia. Sự
suy nghĩ đó càng sâu, tôi càng thấy giữa anh Nguyên Phong
và chúng tôi như có chung một mối lo đượm nhiều
sự huyền diệu, lạ kỳ.
Từ
đó, nhân hôm anh Nguyên Phong xuống thăm chúng tôi, một số
bạn bè trong nhóm tu học, cùng đến. Chúng
tôi nài nỉ anh Nguyên Phong cho chúng tôi một cuộc đàm
thoại. Anh ngần ngại măi mới
khiêm tốn nhận lời. Vấn đề
trên lại được mang ra thảo luận. Người nghe không chỉ có những người
lớn tuổi như chúng tôi, mà c̣n có cả thành phần trẻ,
những người được sinh ra, lớn lên và
trưởng thành ở Mỹ này. Anh nói
bằng tiếng Việt và tiếng Anh. V́ “vấn
đề bao quát quá, xin được thu
hẹp trong phạm vi thực phẩm mà chúng ta dùng hàng
ngày”. Sau nhiều thí dụ rất cụ thể, anh kết
luận rằng: “Xă hội Mỹ làm ǵ cũng muốn
đốt giai đoạn, làm thật nhanh để mau có
lợi. Trong việc chăn nuôi, để mau
có kết quả, người Mỹ đă trộn nhiều
hoá chất vào thực phẩm gia súc, nhất là trong kỹ
nghệ nuôi ḅ. Sau đó khi chúng ta ăn thịt những
gia súc ấy, đương nhiên chúng ta cũng tiếp nhận
những ảnh hưởng của những hoá chất kia. Những con trẻ dùng thực phẩm
này, cũng lớn nhanh hơn b́nh thường. Thân xác các em
phát triển sớm, nhưng trí tuệ th́ không phát triển
kịp, do đó đưa đến những xáo trộn nếp
sống, xáo trộn xă hội…”. Nghe anh
nói đến đây, tôi nghĩ đến một danh từ
thường được sử dụng trong xă hội
này: terrible teenager và những chuyện phiền hà, bi thảm,
những cuộc thảm sát tại các trường học
do trẻ nhỏ gây ra; những “bà mẹ-trẻ con” bất
đắc dĩ khi mới vừa xong tiểu học . . .
Cũng
trong dịp này, nhà văn Nguyên Phong cũng kể một câu
chuyện của một người mê nhậu nhẹt
như sau :“…anh ta rất khoái nhậu món
lươn um. Như thường lệ, trước khi
làm sạch nhớt, anh ta bỏ con lươn vào một chậu
nước sôi, rồi dùng cái que nhỏ d́m con lươn xuống
nước. Con lươn cố vùng vẫy để cái bụng
trồi lên khỏi mặt nước nóng. D́m
nhiều lần như thế, nhưng cái bụng con
lươn vẫn cứ trồi lên. Sau vớt con
lươn ra, mổ bụng nó ra mới hay là con
lươn đang có mang. Có lẽ nó đă cố gắng trồi
cái bụng lên để con nó trong bụng khỏi chết
chăng?” Sau câu nói này, anh Nguyên Phong đă ngồi
im, mọi người nghe cũng ngồi im, nhưng rất
nhiều người đă đầm đ́a những lệ.
Trong giây phút ngập tràn xúc động này, anh Nguyên Phong
đă nói: “Mọi sinh vật đều tham sống, sợ
chết, chúng cũng có t́nh thương, t́nh mẫu tử
chứa chan. Con ḅ trước khi bị đẩy vào ḷ sát
sinh cũng đă cố gh́ bước lại và hai hàng
nước mắt chảy. Những giờ
phút đó, nỗi oán hận ngập tràn. Nỗi oán hận đó tiêu tán đi đâu? Nỗi oán hờn đó thấm vào từng tế
bào của thân thể nó. Khi chúng ta ăn những miếng
thịt mang nỗi oán hận này, nỗi oán hận nhiều
hay ít đă tạo nên những độc tố chống lại
cơ thể chúng ta. Phải chăng đó là
nguyên nhân gây nên những chứng bệnh hiểm nghèo mỗi
lúc mỗi lạ trong cuộc sống của xă hội chúng
ta? Tuy chưa có một cuộc nghiên cứu khoa học
nào chứng minh đầy đủ điều này,
nhưng cứ lấy cá nhân ḿnh mà suy xét, tôi tin rằng ḿnh
dùng sự khôn lanh, tàn bạo để ăn thịt những
động vật khác là một sự không công bằng. Oán
oán chập chùng, muôn loài bị con người tàn sát, chắc
không để chúng ta yên đâu. Đức Phật, một
vị toàn giác, cũng đă khuyên chúng ta nên ăn
chay. Trong tinh thần ấy, cá nhân tôi, gia đ́nh tôi, cũng
như đại gia đ́nh của chúng tôi từ song thân
tôi, anh em tôi, hầu như tất cả đều ăn chay. Chúng tôi ăn
chay từ ngày c̣n bé.”
Nghe
thế, những người lớn, những người
có tuổi, từng lên chùa, t́m đọc kinh Phật th́
đồng ư rất dễ dàng. Nhưng có một vài thanh niên đặt
câu hỏi: “Tôi thấy chú nói như thế thật hay. Nhưng có lẽ chú làm được, các bác làm
được. Chúng cháu c̣n trẻ, học hành và
chơi thể thao, cần rất nhiều nhiệt lượng,
sợ ăn chay không đủ chất bổ, khó theo được cách ăn uống này.” Anh
Nguyên Phong tươi cười đáp: “Đừng lo. Nhiều người cũng đă lo như thế.
Hăy lấy cá nhân tôi để chứng minh.
Tôi làm việc cho Boeing ít nhất 10 tiếng một
ngày. Cuối tuần nhiều khi phải
cùng ông giám đốc công ty đi thăm viếng các
nơi. Tối về nhà tôi đọc và dịch sách,
hoặc soạn bài giảng hay xem xét các bài vở cho các sinh
viên làm luận án với tôi. Đặc biệt, không ngày nào tôi không phải
nghiên cứu và học thêm. Những dữ
kiện mới lạ tràn ngập. Không học,
đứng yên là bị đào thải ngay, c̣n mong ǵ chỉ
huy được ai nữa. Thường
tôi không bao giờ ngủ trước 12 giờ. 6 giờ
sáng tôi đă dậy, ôn tập các bài vơ.”
Anh Nguyên
Phong chỉ nói đơn giản thế thôi, nhưng trên thực
tế, anh là một trong số rất ít nhân vật quan trọng,
đă có những đóng góp cụ thể và to lớn vào sự
canh tân và phát triển của hăng Boeing, hăng đóng máy bay lớn
nhất hoàn cầu này. Trong bản tin nội bộ của
công ty, ISSUES, phát hành thàng 1 năm 1996, có đặc biệt
vinh danh 2 người như sau : “Two people, one the architech of
the Boeing’s Intranet and the other an expert in the field of software process
improvement, have named Associate Technical Fellows of the Boeing Company for
1997.” Bài báo do Paul Swortz viết, nói rơ hơn về những
phát minh quan trọng của khoa học gia Nguyên Phong như
sau: “Vu joined Boeing in 1987 working as a senior computing analyst on CATIA
systems supporting the development of the 777. He now works in sofware
Engineering Research and Technology, leading companywide sofware improment
process and consulting in sofware engineering disciplines.(…)
He was lead engineer on the Tomahawk cruise missile navigation system and was
technical manager of avionic systems for the F-15 fighter and AH-64 Apache
helicopter.
During his
time at Boeing, Vu has gained a reputation as one of the world s expert on the
Capability Maturity Model, a tool used to measure the effectiness of sofware
processs. He also coauthor of the company s Advanced
Quality System, which helps Boeing identify, select and estblish relationships
with suppliers and the standard used by BCG for subcontractor management.
Vu lives with
wife and two children. He also works with the terminally and is a fourth-degree
black belt in karate”.
Một
người thành đạt như thế, hữu hiệu
như thế, và lành mạnh như thế, thường
th́, dù cố gắng, không khỏi có những sự tự
tin, tự măn và kiêu hănh, nhưng ở anh Nguyên Phong th́ không,
hoàn toàn không. Bởi hàng ngày anh đều
nghiêm khắc và trân trọng làm lễ sám hối. Anh
nói: “Và một điều nữa tôi không bao giờ quên
trước khi đi ngủ là để tâm rất thanh tịnh
làm lễ sám hối.. Sám hối những
sai lầm dù vô t́nh hay cố ư mà ta đă gây ra trong ngày. Lễ với tâm thanh tịnh c̣n là để giải
trừ ḷng kiêu mạn của chính ta. Nếu
ta xét trong ngày chúng ta đă không có lỗi ǵ, th́ lễ sám hối
để tiêu trừ những lỗi lầm từ ngàn vạn
kiếp của chúng ta từ vô thuỷ đến nay.
Trong mịt mù của tiền kiếp, biết
bao lỗi lầm chúng ta đă gây ra. Chính
sự kiêu mạn là nguyên nhân của những hiểu lầm,
oán ghét, hận thù, tạo ra những tranh chấp trong cuộc
sống. Chiến tranh cũng từ
đó mà phát sinh. Nỗi thống khổ
của loài người phải chăng cũng từ ḷng
kiêu mạn mà bành trướng?” Nói rồi,
sau một phút lặng yên, không có ai có ư kiến ǵ thêm nữa,
anh Nguyên Phong nghiêm trang thỉnh ba tiếng chuông. Tiếng chuông trong veo ngân toả. Anh Nguyên
Phong chấp tay, cúi đầu sát đất, xá tất cả
mọi người, khiến ai nấy đều cung kính
xá lại, tạo cho sự kết thúc buổi sinh hoạt
một vẻ trang trọng, khiêm cung, tương kính và
thương yêu bao trùm tất cả mọi người và
cảnh vật xung quanh. Ai nấy bỗng
như vừa t́m thấy một hạnh tu thật đẹp
đẽ, giản đơn và cũng thật là b́nh đẳng,
phù hợp với nếp sống hiện tại, mà vẫn
không hề đi ngược lại những lời giáo huấn
của Đấng Như Lai.
oOo
Hơn
20 năm quen biết một người. Đọc trên dưới
2000 trang sách của người ấy dịch, phóng tác và viết
ra, chính cá nhân tôi đă học được từ người
ấy nhiều lắm, từ những kiến thức hiện
đại cũng như cách ứng xử trong cuộc sống,
khiến tôi không thể không viết về người ấy.
Đành rằng sau cuộc đổi đời chua chát
năm 1975, quanh ta biết bao nhiêu những điều trái
tai gai mắt làm cho chúng ta chán ngán, buồn ḷng; nhưng trong
lặng lẽ, chúng ta cũng đă chứng kiến biết
bao nhiêu nghĩa cử đẹp đẽ, bao nhiêu nỗ
lực bền bỉ và âm thầm từ những gia
đ́nh, từ những cá nhân cố gắng làm nên. Nói về
cái xấu th́ đă có nhiều người viết, bây giờ
có ai nói thêm tưởng cũng chẳng ích chi. Riêng tôi, tôi
muốn nói về cái hay, cái đẹp, như những viên
ngọc quư trong cộng đồng chúng ta, tuy lặng lẽ
nhưng đáng trân quư biết là bao nhiêu. Dù biết
rằng viết như thế là phạm vào một lỗi
lầm, làm sứt mẻ một phần nào tính khiêm cung của
những người ấy, nhất là của tác giả
Nguyên Phong. Nguyên Phong, một luồng-gió
tinh-khôi lành mạnh đă và đang thổi vào nếp sinh hoạt
của chúng ta nơi hải ngoại và lặng lẽ thẩm
thấu đến mọi phương trời, làm mới
những suy nghĩ cho những ai t́m đọc được
sách của anh, thấy được lời chỉ dạy
của Đấng Như Lai. Bài viết này như khêu
lên một ngọn đèn tuy nhỏ bé nhưng hy vọng lần
lượt sẽ có những ngọn hải đăng
sáng rỡ hơn được thắp lên làm tan đi bóng
tối hận thù, độc ác và lừa dối, cũng
như bớt đi những hệ lụy thấp hèn từ
bao lâu nay đă bao phủ lên dân tộc và cộng đồng
chúng ta. Bao lâu c̣n có những luồng gió lành mạnh
ấy thổi lên, c̣n có nhiều người đón nhận,
c̣n những kẻ “khêu đèn, tiếp lửa” th́ tôi vững
tin rằng dân tộc chúng ta chắc chắn sẽ hồi
sinh. Trong tinh thần ấy, tôi cũng xin cúi đầu
đảnh lễ bốn phương trời, mười
phương đất, xin tất cả chư vị
độc giả cũng như bằng hữu xa gần,
đại xá cho những vụng về, thiếu sót khi tôi
viết bài này. Cũng mong anh Nguyên Phong xin
đừng phiền trách.
---------------------------------------------------------------------------------
Biography:
John Vu is
senior principal scientist at Boeing s Sofware Enginering Reseach anh
Technology. He has more than 20 years of experience as software engineering and
project manager; he is currently the lead on software process improvement in
Boeing.
Ngoài
công việc chính tại Boeing, ông vẫn tiếp tục
nghiên cứu và là khoa học gia (Senior Scientist) tại đại
học Carnergie Mellon University và Seattle University. Ông c̣n đi dạy
tại một số đại học quốc tế khác
tại Trung Hoa, Nam Hàn, Nhật Bản, Ấn Độ về
lănh vực Softwave Engineer.
Ông cũng
vừa cho xuất bản cuốn sách giáo khoa Software Engineer
bằng Hoa ngữ, (do nhữnng một số học tṛ của
ông soạn, dịch từ những bài giảng của
ông.). Cuốn sách này là tài liệu giáo khoa chính
của rất nhiều đại học Trung Hoa hiện
nay.
Phan lạc
Tiếp