Việt Nam hôm nay giàu hay nghèo
Lâm Văn Bé
Sau 46 năm Cộng Sản cưỡng chiếm
miền Nam để thống nhứt thành một nước
Việt Nam Cộng Sản, nhiều người đặt
câu hỏi là «Việt Nam hôm nay giàu hay nghèo ».
Câu trả lời tùy vị trí và tri thức
của người trả lời. Đối với người Việt trong nước,
câu trả lời tương đối dễ dàng qua cảm
nhận và quan sát từ cuộc sống của họ và
đồng bào của họ. Đối với người
Việt xa xứ từ lâu và người ngoại quốc
chưa đến Việt Nam, câu trả lời có thể
khó hơn và phiến diện bởi lẽ tùy thuộc vào
quan điểm chính trị và kiến thức sàng lọc qua
truyền thông, sách báo. Đó cũng là trường
hợp của tác giả bài viết nầy.
Rời Việt Nam khi Cộng quân tiến
vào Saigon và chưa bao giờ trở về thăm đất
tổ v́ Cộng Sản vẫn c̣n đó, tác giả cũng
như một số đồng hương cùng cảnh ngộ
chỉ biết Việt Nam qua chuyện kể và chuyện
đọc. Bởi lẽ chuyện đọc
là nghề nghiệp và cũng là thú tiêu khiển, tác giả xin
tŕnh bày với độc giả một số tài liệu gọi là chọn lọc, cập
nhật để giúp độc giả khả dĩ có một
câu trả lời. Nói gọi
là v́ trong thời đại bùng nổ truyền thông và
các xảo thuật biến hóa bởi con người và máy
móc, sự trung thực hoàn toàn phải hiểu là rất hiếm,
đặc biệt tài liệu xuất phát từ cộng sản
Việt Nam. Trong nhận định ấy, những con số
thống kê có khi chỉ nên coi như độ
lớn, và bài viết như một tổng quan hay toàn cảnh
(panorama).
Vài ư niệm và
định nghĩa về danh từ nghèo
Trước tiên phải có ư niệm sao gọi
là nghèo. Từ những công tŕnh
nghiên cứu của nhà kinh tế Benjamin S. Rowntree vào đầu
thế kỷ XX đến kinh tế gia người Ấn
đoạt giải Nobel năm 1998 là Amartya Sen, rất nhiều
nghiên cứu của các kinh tế gia đă đưa ra những
lư thuyết, định nghĩa về hiện tượng
nghèo, nhưng không một lư thuyêt nào được sự đồng
thuận.
Một cách tổng quát, Sen chủ
trương đời sống của người dân không
đo lường bằng tài sản mà bằng bất b́nh
đẳng (inégalité) và khả năng hành động
(capabilité). Một quốc gia, dù cho giàu có, phong phú tài nguyên mà
người dân vẫn cảm nhận nghèo khổ, thiếu
thốn, nếu sống trong một môi trường bất
b́nh đẳng, bất an. Trái lại người dân một
quốc gia kém tài nguyên mà vẫn có thể hưởng
được một cuộc sống khả quan nếu
chính phủ biết sử dụng khéo léo tài nguyên và nhân lực.
Quan điểm nghèo đói theo thuyết b́nh đẳng như
trên của Sen đối nghịch với lư thuyết của
John Rawls trong Théories de la justice
theo đó tự do con người gắn liền với lợi
tức, và phát triển kinh tế gắn liền với sự
giàu có của người dân (Dictionnaire des notions. Éditions
Universalis, 2006, p. 595).
Tuy nhiên, nền kinh tế quốc gia và
quốc tế cần có một căn bản đo lường
để từ đó các chính sách quốc gia và trao đổi
kinh tế thế giới được qui định, do
đó các cơ quan quốc tế như Ngân Hàng Thế giới
(World Bank/WB), Chương Tŕnh Phát Triển Liên Hiệp Quốc
(United Nations Development Programme/ UNDP) thường dựa vào
các tài liệu nghiên cứu riêng và chuẩn hóa các thống kê
của các quốc gia để qui định tiêu chuẩn
giàu nghèo.
Mặt trái của
giàu có Việt Nam
- GDP và lạm chi của chánh phủ
GDP viết tắt từ Gross Domestic Product (tiếng
Pháp là PIB/Produit intérieur brut) là tổng sản lượng quốc
gia gồm trị giá sản xuất hàng hóa và dịch
vụ của toàn dân trong nước. GDP dùng để
đo lường cơ cấu kinh tế, mức độ
phát triển và mức sống của người dân. Thông
thường có 3 cách tính GDP, Viện Thống Kê VN sử dụng
một trong 3 cách ấy, nhưng áp dụng
không đúng các nguyên tắc quốc tế cốt để thổi phồng trị giá thực
sự. GDP Việt Nam bị nghi ngờ thiếu
trung thực, bị các chuyên gia thế giới và ngay cả
trong nước chỉ trích. Sau đây là công thức
tính GDP của VN và một số chỉ trích.
C=Tiêu dùng của toàn dân
I= Đầu tư kỹ nghệ
G= Chi tiêu của chính phủ
X-M =Thặng
dư (hayThâm hụt) Xuất Nhập Cảng
- Từ hàng chục năm nay, các đảng
viên quyền lực, các đại gia làm ăn với đảng
đă tẩu tán tài sản tham nhũng ra nước ngoài
để mua bất động sản, đầu tư,
chi tiêu xa xỉ…, tất cả đều được
tính vào mục chi tiêu của chính phủ, nhưng thực tế, số tài sản
nầy đă ra nước ngoài. Chỉ trong năm 2018, Hiệp
hội Công Ty Địa Ốc Hoa Kỳ (National Association of
Realties /NAR) cho biết các công dân mang quốc tịch VN mua địa ốc ở Mỹ
là 3 tỉ, đứng hạng 9 trong số các công dân nước
ngoài thuộc loại nầy. Đó là chưa kể số
đại gia chuyển tiền chính thức và phi pháp đầu
tư ở các quốc gia lân bang và Đông Âu, vừa làm thất
thoát tài sản, vừa thổi phồng GDP.
- Các chi phí
xây lăng, xây tượng, đám tang, lễ
hội, họp đảng đều được tính
vào chi phí của chinh phủ. Thí dụ đám
tang của Trần Đại Quang tốn 100 000 USD không
kể chi phí của đại diện khắp nước
về Hà Nội xếp hàng dể lạy cái xác người
đă bị đảng đầu độc v́ tranh quyền.
Để chuẩn bị Đại Hội Đảng lần
thứ 13, từ năm 2019, các đảng viên trên 63 tỉnh,
thành phố và trung ương đă
nhóm họp liên miên hầu chọn đại biểu,
học tập chính sách, và gần 1600 đại biểu về
Hà Nội 8 ngày từ 26/01/2021 để tấn phong 5 tên
đầu đảng đă được chọn lựa
trước. Tất
cả phí tổn nầy đều được
tính vào chi tiêu của chính phủ.
- Ngoài ra, mỗi
năm chính phủ phải nuôi «11
triệu người gồm công chức, công an, đảng
viên có công tác, chiếm 11.5% dân số ». Đó
là thông tin chính thức của Viện Trưởng Kinh tế
đăng trên báo điện tử của đảng (11 triệu người hưởng
tiền ngân sách /vietnamnet.vn
ngày 13/06/2019). Như vậy, cứ 6 người lao động để nuôi một công nhân
viên chính phủ mà đại đa số nằm trong số
5.2 triệu đảng viên. Báo
điện tử Vietnamexpress
ngày 13/11/2017 cũng của đảng
đă tự hào khoe «VN có đông công chức viên chức
nhất Đông Nam Á ». Năm 2019, VN có 22 bộ nhưng có
đến 120 thứ trưởng, riêng bộ Quốc Pḥng
và Bộ Công An mỗi bộ có 9 thứ trưởng, không
kể vài trăm tổng cục, cục, vụ …có cả
ngàn cấp trưởng và phó
mà lương cấp trung ương là một bí mật.
Đối với công chức, năm
2020 lương thấp nhất (C3): 2.2 triệu đồng
/tháng (tương đương 1 320 USD/năm); cao nhất
(A3): 22 triệu đồng /tháng (tương đương với 13 200 USD /năm). Nếu
tính trung b́nh khoảng 7 000 USD/năm, mỗi năm ngân sách
nhà nước phải trả khoảng 77 tỉ USD tiền
lương cho đám người « sáng vác ô đi, chiều
vác ô về ». Đó là tiền chi của chánh
phủ kể trong GDP.
- Một nguồn tài sản béo bở
đem lại ngoại tệ cho GDP là ngành du lịch. Chỉ kể từ năm 2010 với
5 triệu du khách, thu vào được 4.5 tỉ USD, chiếm
3.9% GDP đến năm 2018 tăng lên 15,5 triệu du khách,
thu được 10 tỉ, chiếm 4.2% GDP. (World Tourism Organisation). Mặc
dù tính vô GDP, nhưng thực tế đa số khách sạn
và resort cao cấp đều là sở hữu của ngoại
bang, tiền lời họ chuyển về xứ họ.
- Trong khi tư bản quốc tế và cộng
sản Việt Nam tham nhũng chuyển dollar ra khỏi
nước th́ dân tị nạn lại chuyển dollar về
nước. Khúc ruột ngàn dậm nầy đa số phải
cật lực lao động ở xứ
người, chắt chiu dành dụm để gởi về
cho thân nhân thực sự nghèo khổ hay sống chùm gởi,
không kể số tiền chi tiêu của «Viêt Kiều về
quê ăn Tết». Trong khoảng thời gian từ năm
2005 đến tháng 10/ 2020, tổng số tiền gởi về
VN là 164.2 tỉ USD, trung b́nh mỗi năm là 10. 2 tỉ, ít
nhứt là năm 2005 với 3.1 tỉ, nhiều nhứt là
năm 2019 với 17 tỉ . Năm 2020, chỉ
tính đến tháng 10 là 15.6 tỉ. (xem chi tiết từng năm trong World Bank. Migrant
remittances inflows updated as Oct.2020). Trung b́nh, số
tiền nầy chiếm khoảng 7% GDP, chính phủ dùng một
phần số ngoại tệ nầy để trả nợ
vay của thế giới. Chuyện gởi tiền dai
dẳng về Việt Nam như trên xác nhận hai điều : thứ nhứt là VN vẫn c̣n
nghèo nên phải nhờ thân nhân ở ngoại quốc gởi
tiền về để tạm sống, thứ hai là dân VN
đă thấm nhuần các bài học gian xảo của
«Bác» để xin tiền thân
nhân với đủ mưu chước để hưởng
thụ. Chuyện gởi tiền nầy
đă làm gia đ́nh người Việt trong và ngoài nước
ly tán, từ thương yêu đùm bọc đến nghi ngờ,
lạnh nhạt rồi thù ghét nhau.
Đó chỉ là vài điều dễ nhận biết. Chuyện GDP và tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam chỉ là tṛ ma giáo, ảo thuật. Đọc
đoạn văn sau đây, độc giả sẽ
thấy chế độ cộng sản đă nhồi
nặn các con số thống kê, các tin tức như cục
bột.
« Hồi tháng 8/2019, người dân Việt Nam
đột nhiên có thu nhập b́nh quân của ḿnh tăng
từ 2600 USD lên 3.000USD / năm , tức 15.38%. Đó là
nhờ đảng sáng suốt t́m ra "cách tính GDP
mới". Vài tuần sau, Tổng cục Thống
kê lại thông báo "GDP Việt Nam bất ngờ
tăng thêm 25,4%/năm khi tính
lại" Quốc Hội cho phép Chính
phủ được thâm hụt ngân sách 3.6% GDP. Khi GDP tăng ảo 25.4% th́ như phép lạ,
ngân sách tự động hết thâm thủng. Đến
khi kinh tế suy thoái, Nguyễn Xuân Phúc
tiếp tục dựa vào chỉ số ảo này
để chỉ đạo mượn nợ như sau: "Trong bối cảnh hiện nay
nhiệm vụ phục hồi phát triển kinh tế trở
nên cấp bách hơn bao giờ hết. Từ mức
nợ công 64.8% GDP trước đây, chúng ta đă giảm
c̣n 57%, nay ta tăng thêm 2% là 59% GDP. Quản lư nợ công
chưa phải vấn đề lúc khó khăn này » .. ngưng
trích .(Nguyễn Xuân Phúc tính
lại GDP để đi mưọn nợ / Dân Làm Báo, 10/07/2020).
Từ những con số thống kê của
Việt Nam, WB chuẩn
hóa thành mỹ kim (current $US)
như sau :
Năm |
Dân số (triệu) |
GDP toàn quốc (tỉ) |
GDP đầu người |
2000 |
79.9 |
31.1 |
410 |
2010 |
87.9 |
115.9 |
1250 |
2015 |
92.6 |
193.2 |
1720 |
2019 |
96.4 |
261.9 |
2590 |
Nguồn : World Bank data
Mặc dù xào nấu số thống kê như
trên, so với 10 nước trong khối ASEAN ( Brunei, Cambot,
Indonesia,, Lào, Mă Lai, Miến Điện, Phi Luật Tân,
Singapore, Thái Lan, VN), GDP đầu người của VN chỉ
cao hơn chút ít Lào, Cambot, Miến Điện vốn là những
quốc gia nhỏ, kém phát triển. Chẳng vẻ vang ǵ các con cháu của dép râu nón cối sau 46
năm cai trị, VN hôm nay c̣n
thua cả Thái Lan, Mă Lai, Phi Luật Tân vốn khi
xưa là những quốc gia đồng đẳng hay kém
hơn Việt Nam Cộng Ḥa, mặc dù chiến tranh xâm lược diễn ra trên lănh thổ
VNCH.
- ODA và nợ công
Để cứu giúp VN thoát
ra t́nh trạng chậm tiến và nghèo đói, tháng 11 năm
1993, một số quốc gia phát triển và các quỹ tiền
tệ quốc tế (WB, IMF, ADB…) họp tại Paris để
chấp thuận tài trợ cho VN theo chương tŕnh ODA (Official
Development Assistance) tiếng Việt gọi là Chương
Tŕnh Hỗ Trợ Phát Triển Chính Thức. Số tiền
tài trợ dưới hai
h́nh thức : viện trợ và cho vay với lăi suất thấp,
thường dưới 3% và thời gian trả nợ dài
hạn (30-40 năm). Trong 10 năm đầu
chỉ trả tiền lời, kể từ năm thứ
11 mới bắt đầu trả tiền lời lẫn
vốn. Từ 1993 đến 2018, ODA đă tài trợ
cho VN 78.2 tỉ USD trong đó có 11.6 tỉ viện trợ và
66.6 tỉ vay ( Vốn ODA ở
VN/ tạpchitaichanh.vn 07/11/2020).
Chuyện khôi hài là chính phủ dùng tiền
viện trợ và tiền vay nợ của ODA với lăi xuất
thấp đem cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), các
địa phương vay với lăi xuất cao hơn
để lấy lời. Cộng Sản xem ODA như của trời cho hay
nghĩ rằng phải chờ đến 30-40 năm sau mới
trả, do đó các đảng viên «có chức» tha hồ
tham nhũng, thi nhau lập dự án để ăn chia từ trung ương đến
địa phương. Việt
Nam có hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước (DNNN) mà vốn do
nhà nước bơm vào hay do nhà nước băo lănh nợ
vay, khi làm ăn thua lỗ v́ thiếu khả năng, v́ tham
nhũng rồi khai phá sản, quịt nợ. Đó là lư do giải thích tại
sao nợ của DNNN Việt Nam không tính vào nợ công, trái với
cách tính của nhiều quốc gia trên thế giới.
Không trả nợ đúng thời hạn,
tiền lời chồng chất, mượn nợ mới
để trả nợ cũ, bù vào ngân sách thâm hụt , nợ
công của Việt Nam đă lên đến mức báo động.
Đối với ngành ngân hàng c̣n là mối
nguy hiểm nghiêm trọng cho tài chánh quốc gia. VN có
10 ngân hàng nhà nước (NHNN), 7 ngân hàng liên doanh(NN và doanh
nghiệp) và gần 50 ngân hàng tư nhân. Chính phủ phải
thường xuyên bơm tiền vào các ngân hàng liên doanh v́ khách hàng ăn
chia với đảng viên quịt nợ (nợ xấu).
Chỉ năm 2020 và chỉ 3 ngân hàng liên doanh lớn (BIDV,
Vietcombank, Vietinbank), nợ xấu lên đến 41 265 tỉ
đồng (tương đương với 470 triệu
USD). (Nợ xấu tại 3 ông
lớn ngân hàng / Firstnewsinworld.com)
Theo Tiến sĩ Vũ Quang Việt, chuyên gia thống kê Liên Hiệp
Quốc cho biết ngay vào năm 2016, nợ công của VN
lên đến 431 tỉ USD, bằng 210 % GDP. Năm 2018, chính
phủ phải tiếp nhận 19 tập đoàn, tổng
công ty thua lỗ với số nợ là 1.3 triệu tỉ
đồng (65 tỉ USD). Riêng Air VN nợ
218 000 tỉ đồng (11 tỉ USD) (Nợ công của VN/ RFA 30/03/2020).
Global Economy dựa vào thống kê World Bank cho biết:
« Việt Nam nợ ngoại quốc từ 1989 đến
2019 tính theo tỉ lệ với GDP trung
b́nh là 91.26%, ít nhất là 27.5% năm 2008, cao nhất là 384%
năm 1990. Trong số các quốc gia ở Á Châu, VN có tỉ
lệ nợ nhiều nhất nếu không kể Mông Cổ,
Cambodge, Lào » (Vietnam External Debt)
Phó Chủ Tịch
Ủy Ban Tài Chánh Quốc Hội công bố hồi cuối
năm « năm 2020, VN
phải trả 318 000 tỉ đồng nợ công, chiếm 27% số thu ngân sách, và người
dân từ trẻ sơ sinh đến người già phải
gánh 40 triệu đồng tiền nợ» (Nợ công 40 triệu mỗi đầu người / RFA
ngày 20/11/2020) . Tính thành mỹ kim, năm 2020, nước VN
phải trả 16 tỉ USD, và mỗi người dân VN phải
trả 2000 USD tiền nợ, trong khi lợi tức đồng
niên trung b́nh của người nghèo chỉ khoảng 500 USD.
Thu vào 100 đồng mà phải trả nợ 27 đồng,
đó là tin chính thức của Quốc Hội bù nh́n chớ
không phải là tin
của «bọn phản động» .
- FDI và giàu ảo
FDI là chữ tắt của Foreign
Direct Investment, tiếng Việt gọi là Chương
tŕnh Ngoại quốc đầu tư trực tiếp
vào VN khi VN ban hành Luật Đầu
Tư nước ngoài năm 1987 và sau khi Mỹ bỏ cấm
vận VN vào tháng 2/1994 dưới thời Clinton. Lúc ban
đầu, từ 1998 đến 2003, FDI thường hoạt
động với số vốn đầu tư nhỏ
khoảng 10 triệu USD, nhưng kể từ sau năm
2003, khi chính phủ VN tu chính Luật Đầu Tư giành
nhiều ưu đăi cho đầu tư nước ngoài,
số vốn tăng lên trăm triệu và gần đây tới
tỉ. Có 2 h́nh thức đầu tư :
nước ngoài liên doanh với VN và vốn 100% của nước ngoài.
Theo Cục
Đầu Tư Nước Ngoài, cho đến ngày
20/12/2020, VN có tổng số vốn FDI đăng kư là 384 tỉ
USD của 137 quốc gia và vùng lănh thổ. Đứng đầu
là Hàn Quốc (70.6 tỉ), kế đó là Nhật Bản
(60.3 tỉ) tiếp theo là Singapore, Đài
Loan, Hong Kong và Trung Quốc.
FDI đă làm bộ
mặt VN sáng sủa hơn từ hơn 10 năm nay,
nhưng VN cũng phải trả một giá rất đắt. Sau đây là
vài thí dụ :
- FDI có tạo công ăn việc làm cho khoảng
3 triệu nhân công VN tính đến nay, nhưng không phải
là nhân công mới tạo thêm mà chỉ là sự chuyển
đổi từ các ngành thủ
công nghệ, nông nghiệp. Điều tác hại hơn
đa số nhân công nầy là phụ nữ, giá nhân công rẻ,
thậm chí c̣n sử dụng như nhân công tập sự
để dễ dàng sa thải, khỏi
phải trả lương cao v́ thâm niên. Một số hăng
xưởng thiết lập trên vùng đất nông nghiệp,
nông dân buộc phải bán nhà, bán đất cho chinh phủ
với giá rẻ mạt để rồi chinh phủ bán lại
cho tư bản gấp chục lần, nông dân mất đất
canh tác, mất nhà trở nên vô gia cư, vô nghề nghiệp.
Chánh sách gọi
là kỹ nghệ hóa nông thôn đă bần cùng hóa nông dân, tạo
thêm một lớp người nghèo đói di cư sống
vất vưởng ở ven đô và tạo nên một giai
cấp tỉ phú địa ốc mà đa số là đảng
viên hay họ hàng. Hăng xưỡng càng
phát triển, tư bản đỏ càng gia tăng, dân càng
nghèo khổ. Đó là mặt trái của FDI.
- FDI đầu tư nhiều vào các ngành
dễ sinh lợi mau chóng, đặc biệt ngành xây cất
và địa ốc. VN hiện nay có gần 100 cao ốc hơn
40 tầng ở Saigon, Hà Nội,
Đà Nẳng và gần như tại mỗi tỉnh đều
có một hai cao ốc. Đó là tài sản 100%
của tư bản Á Châu và tư bản đỏ.
Đừng thấy cao ốc mà cho rằng VN hôm nay văn
minh, giàu có.
- FDI có khuynh hướng sản xuất
cho thị trường tiêu thụ VN thay v́ để xuất
cảng bởi lẽ dễ cạnh tranh với các sản
phẩm nội địa v́ phẩm chất cao hơn, bán
giá cao hơn để thu nhiều lợi
nhuận. Làm như vậy, chẳng những FDI làm hại các
ngành kỹ nghệ, thủ công nghệ của VN mà c̣n làm mất
đi ngoại tệ xuất cảng, mục tiêu tối hậu
khi cộng tác với FDI.
- FDI thực hiện công cuộc chuyển
giao kỹ thuật (transfert technologique) cho VN rất hạn
chế, chỉ chuyển giao những kỹ thuật trung
b́nh hay lỗi thời. Với những đại công tŕnh,
họ đem các chuyên gia lănh đạo và thừa hành, kể
cả kỹ thuật viên sang VN lập kế hoạch và thực
hiện. Trường hợp như Công Ty Samsung với số
xuất cảng trị giá 20% hàng hóa xuất cảng của
VN, với 110 000 nhân công (Thái Nguyên :
65 000, Bắc Ninh : 39 000, Saigon : 6 000) nhưng tất
cả chỉ làm công việc lấp ráp. «Báo cáo của Tổng Cục Thống
Kê VN công bố hôm 19/09/2018 cho biết hầu như doanh nghiệp
VN chủ yếu là gia công cho các doanh nghiệp nước
ngoài và chỉ hưởng được một phần
nhỏ phí gia công. Tổng phí gia công thu được từ các hoạt
động gia công, lấp ráp hàng hóa cho nước ngoài năm
2016 là 8.6 tỉ USD » (Kinh tế
VN vẫn chưa thoát kiếp gia công /RFA 21/09/2018).
Một trường hợp khác như
chiếc xe sản xuất đầu tiên ở VN tên là
VinFast của tỉ phủ giàu nhứt VN là Phạm Nhật
Vượng cũng chỉ lấp ráp từ các bộ phận
của hăng xe GM, đem bán ở VN ít người dám mua v́ xe đang chạy bị sụm
bánh, bị cháy, đă lỗ 300 triệu USD năm đầu,
và mặc dù hạ giá, ép nhân viên mua, nhưng ông vẫn tuyên
bố sẽ sản xuất chiếc Vinfast chạy điện
và xuất cảng sang Mỹ cuối năm 2021. Cũng trong
cơn lên đồng, một viện bào chế tuyên bố
sẽ sản xuất thuốc chủng COVID-19 tên là Nanocovax
vào cuối năm 2021 và bán với giá 5 USD một liều
trên thị trường VN và thế giới trong khi Pfizer
bán đến 20 USD. (Vaccine tự chế của
VN/ RFI 17/03/2021). Chuyện pháo nổ và phong thần ở
VN kể không sao hết được!
Nói tóm lại, dẫu
biết VN là một quốc gia đại tham nhũng,
nhưng giới đầu tư ngoại quốc vẫn
rót tiền vào VN, thỏa hiệp với tham nhũng để
hưởng lợi theo lối win-win hay
bất chính. Họ vay tiền ngân hàng VN thay v́ mang tiền
vào, vay tiền ngân hàng một số cao hơn trị giá tài
sản rồi khai phá sản hay bỏ trốn, khai lỗ
liên miên để xin miễn thuế và chuyển giá, t́nh trạng
mà giới doanh thương VN gọi là « lỗ giả, lăi
thật», lập nhà máy qua loa, thu nhân công sản xuất rồi
bán nhà máy, quịt lương nhân công.
Vỏ quưt dầy th́ có móng tay nhọn, cộng sản
VN đâu phải là siêu việt hơn các FDI da trắng, da
nâu, nhứt là FDI có máu Chệt trong các tṛ ngang ngược,
lưu manh.
Mặt thật
của nghèo đói Việt Nam
* Theo Chương Tŕnh Phát Triển
Liên Hiệp Quốc (United
Nations Development Programme/UNDP), nghèo được định
nghĩa dưới 3 trạng thái:
- Nghèo cùng cực
(pauvreté extrême): không có đủ lợi tức để có
nhu cầu thực phẩm cần thiết tính bằng
calories.
- Nghèo tổng
quát (pauvreté générale): không có đủ lợi tức để
có nhu cầu thực phẩm và các nhu cầu khác như quần
áo, nhà ở và điện lực.
- Nghèo con người (pauvreté humaine): thiếu
các điều kiện sống của con người
như thất học, thiếu dinh dưỡng, tuổi thọ,
sức khỏe. Nghèo nầy c̣n gọi là nghèo theo
mức sống hay nghèo đa chiều.
* Theo Ngân hàng Thế giới,
thước đo nghèo là ngưỡng nghèo.
Ngưỡng
nghèo áp dụng trước năm 2005 là 1 USD/người/ngày,
từ 2005 đến 2014 là 1.25 USD và từ 2015 đến 2021 là 1.9 USD.
* Theo Thống kê VN : Ngưỡng
nghèo từ 2006 đến 2020: Ở nông thôn: 700.000 đồng/tháng
(35 USD/tháng = 1.15 USD ngày); Ở thành thị : 900.000 đồng/tháng
(45 USD/tháng = 1.5 USD/ngày).
* Theo WB, không kể người giàu, 5 nhóm kinh tế được
tính theo lợi tức 1 người mỗi ngày (bằng
USD) như sau: nghèo cùng cực: 1.7; nghèo vừa phải : 1,9 – 3; dễ bi tổn thương kinh
tế (khi nghèo, khi thoát khỏi nghèo) : 3.2 – 5.5 ; an
toàn kinh tế : 5.5 – 15 ; trung
lưu : từ 15 USD trở
lên.
* Theo Thống Kê VN, xă hội chia ra 9 tầng
lớp như sau: « lănh đạo, doanh nhân, chuyên môn cao,
nhân viên, công nhân, buôn bán-dịch vụ; tiểu thủ công
nghệ, lao động giản đơn, nông dân ».
* Theo tác giả :
Căn cứ vào số liệu của các cơ quan quốc
tế (WB, UNPD, World Wealth, Knight Frank, Forbes) chúng tôi tổng hợp và tóm tắt t́nh trạng
giàu nghèo ở VN theo 3 giới (nhóm)
như sau :
- Giới giàu : gồm
6
tỉ phú có tài sản chung là 16.7 tỉ mà đứng
đầu là Phạm Nhật Vương với tài sản
là 7.7 tỉ USD, đứng hạng 385 trong bảng xếp
hạng các tỉ phủ trên thế giới của Forbes
(Forbes. The World’s real-time Billionaires updated as 2021/01/06).
Kế đến là khoảng 460
siêu giàu với tổng tài sản khoảng 30 tỉ. Để được
gọi là siêu giàu phải sở hữu ít nhứt 30 triệu
USD đầu tư, không kể tài sản cá nhân và bất
động sản. Cơ quan World Wealth cũng nhấn
mạnh đây là con số những người cho phép kiểm chứng tài sản,
nhưng VN c̣n có hàng trăm siêu giàu v́ « tâm lư chung xă hội »
nên họ giấu kín. Ai mà chẳng biết bọn siêu giàu giấu
kín nầy là bọn siêu tham nhũng trong cái ḷ Ủy Ban Chính
Trị Trung Ương. Ngoài ra hiện nay có 19 500 triệu phú
và dự trù tăng lên 38 000 trong 10 năm sắp tới.
Báo cáo của World Wealth đầu
năm 2019 cho biết VN là quốc gia có tầng lớp siêu
giàu tăng nhiều nhất trên thế giới trong giai
đoạn 2007- 2017 với tỉ lệ là 210% .
Không biết đích xác tài sản của
giới giàu đang ở trong nước và đă tẩu
thoát, tẩu tán ra nước ngoài từ hàng chục năm
nay là bao nhiêu, nhưng với khoảng chưa đầy 1%
dân số, trị giá tài sản
của giới giàu nầy phải
ít nhứt tương
đương với 50% tổng số GDP của cả
nước.
Nếu tính cho đủ tỉ lệ 1%
dân số giàu ( gồm tỉ phú, siêu giàu,
triệu phú, và người có ít nhứt 160 000 USD), VN có
khoảng 960 000 người . (theo Knight Frank). Đó là giai cấp thống trị chính trị và
kinh tế VN.
- Giới trung lưu : gồm
cán bộ nhà nước trung cấp, giới chuyên nghiệp
(bác sĩ, kỷ sư, luật sư…), nhân viên các công ty
nước ngoài, doanh nghiệp tiểu thương, có lợi
tức mỗi ngưởi mỗi ngày hơn 15 USD. Công cuộc đô thị
hóa và kỹ nghệ hóa VN từ 20 năm nay đă gia
tăng lớp trung lưu, mỗi năm tăng khoảng 1-1.5%
dân số, hiện nay chiếm khoảng 19% dân số (những
con số khác nhau từ 16% đến 25%). Về văn
hóa, đa số có tŕnh độ, về chính trị, đa
số an phận, giả câm giả
điếc v́ chén cơm manh áo, nhưng khi cần chọn lựa,
họ sẽ đứng về phía giai cấp thống trị
v́ họ đă trưởng thành trong giáo dục của kẻ
thống trị.
- Giới nghèo : khoảng 80%
dân số tập trung ở vùng ven đô (lao động chân
tay), vùng nông thôn (nông dân) và «vùng sâu vùng xa» (dân tộc thiểu
số). Đó là những người mà WB gọi là nghèo cùng cực ,
nghèo vừa phải, dễ bị tổn thương kinh tế
(khi nghèo, khi thoát ra ngưỡng nghèo), Theo báo cáo của WB, tỉ
lệ người nghèo cùng cực ở VN
như sau: 2010 : 20.7% ; 2012 : 17.2%; 2014
: 13.5%; 2016 : 9.8%; 2018 : 6.7%. Tỉ số người nghèo cùng cực vẫn c̣n
quá cao so với báo cáo láo của Thống Kê Viêt Nam
(3%)
Nhớ lại, thời Việt Nam Cộng Ḥa, người
dân nghèo khổ v́ chiến
tranh do đạo quân áo bà ba đen khăn rằn và dép râu
nón cối gây ra, chớ không có nghèo
đói. Sau
46 năm bị trị, người dân sống dưới
chế độ Việt Nam cộng sản bị đói. Trang mạng
báo điện tử của chính phủ (hanoimoi.com.vn ngày 04/02/2021 ) đăng tin :
«Đến nay
đă có 17 tỉnh đề nghị Thủ Tướng
chính phủ hỗ trợ gạo từ nguồn dự trữ
quốc gia hơn 12 416 tấn cho 707 535 nhân khẩu,
trong đó hỗ trợ dịp Tết Nguyên Đán là
hơn 9 082 tấn».
Trong khi khắp
nước tưng bừng nở hoa ăn Tết th́ có gần
1 triệu người dân trên 17 tỉnh xin gạo ăn đỡ
đói, như vậy VN hôm nay giàu hay nghèo ?
Kết luận
Việt Nam hôm nay có nhiều xa lộ, nhiều
nhà chọc trời tối tân, nhiều con đường
tráng nhựa và nhiều nơi có điện lực dẫn
đến làng xă. Tuy
nhiên, bởi lẽ đa số người dân trong nước
phải quần quật với cuộc sống trong thiếu
thốn, trong bất an, họ thờ ơ với những
thay đổi nầy v́ họ vẫn quen thuộc với cái
mái nhà dột, con đường lội nước. Cái
cột điện dù cho ở trước nhà họ cũng
chỉ là vật trang trí, mặc dù họ có đóng góp nhiều
hơn giá tiền làm cái cột điện, nhưng họ không
có tiền đong gạo th́ làm ǵ có tiền để mắc
điện vào nhà và trả tiền điện. Nghèo đói, thờ ơ và sợ hăi đă khiến
cộng sản lộng hành và gia tăng bạo lực.
Việt Nam hôm nay là đất của ngoại
bang. Họ xây cất với vốn
và nhân công của họ rồi bán hay cho VN mướn, họ
sản xuất sản phẩm của họ trên nước
VN hay đem từ nước họ rồi bán cho dân VN với
giá họ định. Họ lập
đặc khu của họ trên đất VN mà không cho dân
VN đến gần. Những xa lộ thênh thang với
những chiếc xe giá «khủng»
của giới nhà giàu, những khu giải trí hiện
đại mà hàng đoàn xe bus đầy nhúc du khách nối
đuôi vào, đó là những món nợ truyền kiếp mà
người dân VN nhiều thế hệ phải trả.
Tóm lại, Việt Nam hôm nay chẳng c̣n chủ
quyền và chẳng c̣n ǵ đáng giá.
Tuy nhiên, Việt Nam có rất nhiều tài
sản của ngoại bang làm cho đảng nở mặt
nở mày với thế giới. VN c̣n có cả triệu Việt Kiều gởi tiền
và mang ngoại tệ về quê ăn Tết để
đảng có tiền trả nợ và để quảng
cáo dùm cho đảng là đất nước hôm nay văn
minh tiến bộ cái ǵ cũng có, thậm chí c̣n hơn cả
đất nước đă cưu mang họ khi năm
xưa, họ đă t́m cái sống trong cái chết để
vượt thoát khỏi địa ngục mà hôm nay họ trở
về rồi trầm trồ khen ngợi. Họ có biết
chăng những cửa hàng lộng lẫy, những cao ốc
cực kỳ sang trọng là tài sản của tư bản
đỏ liên doanh với / hay 100% của Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan, nói chung là của tư bản đủ
các sắc dân, nơi mà đám
mệnh phụ phu nhân, cậu ấm cô chiêu của các vua
chúa đỏ, quần thần đỏ, tư bản
đỏ lũ lượt đến để đốt
tiền tham nhũng và các du khách ngoại quốc đến
để mua hàng rẻ hơn ở xứ họ.
Nhưng trong cái rực rỡ «hoành tráng »
ở các khu phố sang trọng ấy, VN hôm nay vẫn c̣n có
người cụt chân lê lết trên đường đưa
nón xin tiền, có đứa trẻ lem luốt chạy theo
khách mời mua vé số, có bà già dựng chiếc xe đạp
bên lề đường với cái giỏ đựng những
đồ chơi trẻ con bằng nhựa. Đâu đó,
trước cửa hàng Vutton, một nhóm người tay cầm Iphone nhi nhô tiếng Việt tiếng
Anh lơ lớ, nhưng ngập ngừng không dám vào «tham
quan» v́ thấy…ḿnh không giống ai từ túi tiền đến
y phục. Đó là mặt thật của giàu
nghèo ở VN hôm nay và cái phũ phàng đổi đời của
«áo rách về làng».
Không, Việt Nam hôm nay không giàu mà chỉ
có đảng giàu. Đảng viên và bọn « ăn theo » đảng càng giàu th́ người
dân càng nghèo. Thành phố càng mọc lên nhiều cao ốc, ngoại
ô càng xây thêm nhiều hăng xưởng th́ người dân càng
mất đất mất nhà, và người dân nhiều thế
hệ sẽ không bao giờ trả hết nợ ngoại
bang.
Đó là câu trả
lời của một người tị nạn không về
quê ăn Tết và vẫn luôn tưởng
niệm ngày Quốc Hận 30 tháng Tư mỗi năm.
Lâm Văn Bé
Quốc Hận
năm thứ 46