-1-
BỨC TÂM THƯ
GỞI
NHỮNG NGƯỜI T̀NH
QUEN BIẾT VÀ KHÔNG QUEN BIẾT
*
* *
“Ai tri âm đó, nhận mà coi”.
(Thơ Tản Đà)
Từ mấy mươi năm nay, hoài băo của tôi
là ghi lại hồi kư của ḿnh và gia d́nh để sau này con cháu
biết ông bà chúng nó
đă làm ǵ cho Tổ
Quốc, cho quê hương, cho gia đ́nh.
Cùng với vận
mênh của đất nước, gia đ́nh chúng tôi là chứng
nhân, cũng là nạn nhân của một cuộc chiến
tranh bạo tàn, phi nghĩa và bẩn thỉu nhất trong lịch
sử nhân loại.
Đất
nước tôi, dân tộc tôi, máu xương người Việt
đă bị các siêu cường đem ra mua bán, đổi chác, đẩy đưa
đồng bào tôi vào một cuộc chiến tranh huyết
nhục tương tàn.
Vợ chồng
tôi cưới nhau trong thời chiến tranh thảm khốc.
Sáng, nàng tiễn chồng lên “ngựa sắt”, không biết
chiều có trở về không? Hay rồi lại cảnh:
“Ngựa hồng
đă đến bên hiên
Chị
ơi...Trên ngựa chiếc yên vắng người!”
(Thơ Thanh Tịnh)
Chúng tôi có số
“Thiên di chiếu mệnh”. Cứ mỗi lần nàng sinh con
là một lần đi. Lần sau cùng tưởng chừng
không bao giờ trở lại.
Sinh đứa
con đầu ḷng -Trần Vũ Quỳnh Trâm - trong hoàn cảnh
“thập tử nhất sinh” khi b́nh dưỡng khí sắp cạn
kiệt. Nàng phều phào: “Thưa Bác sĩ, cho phép tôi rặn,
sanh cho ảnh một đứa con, tôi có chết cũng cam ḷng”.
Rốt cuộc
mẹ tṛn con vuông, nhờ ơn cứu tử của Bác sĩ
bảo sanh Phạm Đ́nh Chí và Bác sĩ Thọ TĐT/ Y Sĩ
trưởng của TĐ 22/QY (SĐ 22 Bộ Binh).
Lần sanh
đẻ sau cùng (cháu Trần Vũ Bằng Phong) lại bị
làm băng, cơ thể suy nhược. Chưa đầy
ba tuần lễ sau phải dấn thân vào một cuộc
di tản đẫm máu trên liên Tỉnh Lộ 7B (Phú Bổn
– Tuy Hoà).
Đơn vị
của tôi được lệnh “Mở đường
máu”, phá ṿng vây dầy đặc của SĐ 320 CS/BV (khét tiếng
thiện chiến từ thời
Điện Biên Phủ) tại chân
đèo Tona (Phú Bổn) cho chiến đoàn di tản của
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II vượt qua.
Chiếc thiết
xa M113 chở vợ và các con tôi bị bắn
cháy. Nàng bồng bế bốn đứa con thơ leo núi,
băng rừng để t́m chồng. Ṛng rẫ ba ngày
đêm không không có một miếng ăn, một giọt
nước!
-2-
Trong bối cảnh
của một chiến trường thảm khốc, dă man
và tàn bạo, một cảnh tượng thương tâm
chưa từng thấy trong lịch sử loài người.
“Một người
mẹ yếu đuối, bệnh hoạn, sức đă
cùng, lực đă tận, tái sinh con ḿnh bằng nước
tiểu, máu, nước mắt và hơi thở của
ḿnh.
*
* *
Khi tôi lâm vào cảnh
tù đày, nàng tâm sự “Em thương yêu anh vô cùng, nhưng
đôi tay em yếu đuối quá, không làm ǵ cho anh
được”. (Kontum 13/4/1976).
Ở nhà, nàng tảo
tần xuôi ngược, buôn gánh bán bưng:”Mỗi lần
có đá banh trong sân vận động, má gánh chè và ư ra bán” (Ư là đười ươi
/ hạt é - Thư Quỳnh
Trâm, KTM 1/6/1976).
Các con thơ dại
– Trần Vũ Quỳnh Trâm, Trần Vũ Quế Lam, Trần
Vũ Nhật Quang, Trần Vũ Bằng Phong đi nhặt
từng đoá hoa sứ, đi làm mành trúc, mót tiền mua gạo
chung sức với mẹ để nuôi cha trong tù.
Nàng dẫn con,
cương quyết đạp bằng cơn sóng dữ của sông Hồng
cuồn cuộn máu đỏ, vào tận vùng ma thiêng nước
độc “Mai Côi” - một địa danh nổi tiếng
“đoạ đày”được truyền tụng trong ca
dao miền Bắc:
“Thương
nhau cho thịt cho xôi
Ghét nhau
đưa đến Mai Côi, Đầm Đùn”.
Để gánh
gạo nuôi chồng, Nàng “không khóc nỉ non mà c̣n tự hào,
hănh diện”.
*
* *
“Một Thời
Chinh Chiến” được thai nghén từ lâu, nay mới
được anh Lại Quốc Nam, một người bạn
cùng chiến tuyến, cho nó ra chào đời, nuôi nấng, dạy
dỗ, hun đúc tinh thần, mới được nên
người như ngày nay. Anh đă tận dụng hết
mọi sáng kiến, đem hết tâm huyết và dành trọn
cho tôi tất cả t́nh cảm quư báu. Người ta thừơng bảo:
“Tứ thập
nhi lập”
C̣n tôi:
“Bát thập nhi
huyễn hoặc”
Chỉ là lẩm
cẩm và sai lầm ...
Chỉ có anh mới
có đủ kiên tŕ làm một việc mà bản thân tôi không
thể làm được cho ai khác.
Tôi chỉ biết
nhớ ơn anh.
*
* *
Trước
kia tôi nghĩ là viết cho con cháu đọc. Giờ mới thấy
là thế hệ cháu tôi không thể cảm thông được
v́ đại đa số các trẻ em
sinh ở Mỹ không thể đọc tiếng Việt. Nỗi
bức xúc của tôi đă được anh Nguyễn
Văn Khái – bút hiệu Nguyên Khai – và con gái yêu của anh là
cháu Quỳnh Mai giải toả. Đối với tôi, anh Khái là
bạn tri kỷ, tri
âm, cảm thông nhau như
“Bá Nha với
Tử Kỳ”- chúng tôi thường
đùa với nhau như vậy.
Cháu Quỳnh Mai đă hy sinh thời
gian eo
hẹp, đặt hết tâm tư,
t́nh cảm vào để chuyển dịch.
-3-
Người Pháp thường nói “Dịch là phản dịch”
(Traduire c’est trahir). Nhưng lối diễn dịch của QM thanh thoát, nhẹ
nhàng, ư nhị nên chẳng những không phản lại nội dung, tư tưởng, mà c̣n làm cho
nó thêm sống
động và bớt khô khan của nguyên tác. Bác Đông
cám ơn con rất nhiều.
*
* *
“Một Thời Chinh Chiến” không phải là một
tác phẩm văn chương. Nó chỉ là
“Lưu Bút” để giao lưu t́nh cảm
giữa con người
với nhau.Tôi cũng không phải
là một nhà văn, v́
viết văn th́ khó lắm. Văn chương phải bong bảy, khúc triết, mạch lạc, có chủ đề
và nội dung, tư tưởng phải thâm trầm, sâu sắc mới đi sâu vào
ḷng người từ thế hệ này sang thế hệ khác.
“Một Thời Chinh Chiến”được ghi
chép lại hầu như 100% thời gian ngồi trên xe chờ đón
cháu đi học về.Tôi phải đi sớm để có chỗ đậu
xe tốt, khỏi phải lội bộ xa và các
cháu khỏi phải chờ lâu. Do đó nghĩ ǵ, nhớ
đâu th́ viết đấy.Tôi không có nhiều
thời gian để trầm tư, suy tưởng
trong cái tĩnh mịch của không gian để t́m nguồn cảm hứng như các nhà
văn,
Vậy nên:
“ Ai tri âm đó xin
nhận mà coi”.
“Một Thời Chinh Chiến” là:
- Tiếng kêu thống thiết, lạc lơng trong sa mạc,
tiếng thều thào yếu ớt giữa cơn thịnh nộ của trùng dương, nó không có
âm vang như
tiếng gào át sóng của
Demosthenes.
- Tiếng kêu của người dân một nước
nhược tiểu
đau ḷng, đứt ruột, nh́n bọn ác điểu, cáo chồn từ Bắc Kinh, Kremlin,
Washington, kéo nhau đến vầy tiệc đầu lâu
và uống máu người Việt.
Hỡi những “lănh tụ thiên tài” của “Cách Mạng”! của phủ
Ba Đ́nh
có thấy vinh quang hay không?
“Một Thời Chinh Chiến”cũng muốn nói lên ư chí
bất khuất và ḷng can đảm
của người lính Việt Nam Cộng Hoà đă chiến đấu anh dũng dù bị
phản bội, bị bán đứng,
bị trói tay, bị
làm bia sống
cho kẻ thù như trong
cảnh giác đấu thời Trung Cổ!!!
Chúng tôi thua trận,
chúng tôi chết. Nhưng chúng tôi vẫn
thắng, vẫn sống măi trong ḷng Dân
Tộc. Tôi cũng xin kính
cẩn nghiêng ḿnh trước Tổ Quốc anh linh, hồn
thiêng của Dân Tộc, những Chiến Sĩ đă bỏ ḿnh v́
nước, những
người đă nằm xuống trên mảnh đất quê hương hay vùi sâu thân xác
giữa ḷng biển cả, những người đă hy sinh
một phần thân thể của ḿnh cho đất nước, hiện c̣n đang quằn
quại sống kiếp đoạ đày trong cái “Thiên đường
Cộng Sản” ở
Việt Nam.
Tôi cũng xin Thành kính
Tri ân và tưởng nhớ những bậc đàn anh, các
cấp chỉ huy và những
bạn đồng hành đă ra
đi hay c̣n ở lại, những người hữu danh hay vô danh
đă cùng tôi đi trên
mọi nẻo đường của rừng núi Tây Nguyên từ
Banhet đến Phượng Hoàng - Tân Cảnh – Dakto, từ Đức Cơ, Pleime, IA Drang – thung lũng của Tử Thần .
Và sau cùng là Liên
Tỉnh Lộ đẫm máu 7B (Đèo TONA).
- 4 –
Để kết thúc, tôi xin
hỏi các bạn tri âm:
“Những bọn buôn bán máu xương
và mạng sống của con người
để làm giàu”
Họ có c̣n
lương tri của
con người không?
Họ có c̣n
nhân tính không?
Họ văn minh hay mọi rợ?
Phương Chi Trần Đông
FLORIDA ngày 17 tháng 2 năm 2021
Biển Hồ Pleiku 1969 cùng với vợ : Mùa Hè “Đỏ Lửa” 1972 – PleiKu
Vơ Thị Hồng Nhung và con gái chụp sau nhà, trong
cư xá sĩ quan
lớn Trần Vũ Quỳnh Trâm của
Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh, ẵm bé
Trần Vũ Quế Lam