MỘT
THỜI CHINH CHIẾN
Căn cứ
Hỏa Lực Vơ Định
Trung
Úy Trần Đông
Chi Đoàn Trưởng
CĐ 3/3 TK
Kiêm Chỉ Huy
Trưởng Căn Cứ Hỏa Lực Vơ Định
(Bắc Kontum 25
km)
Cùng với: vợ Vơ Thị Hồng Nhung
Con gái: Trần Vũ Quỳnh Trâm
Tại Căn Cứ
Hỏa Lực Vơ Định 6/1969
(ảnh chụp bởi
Đại Úy Campbell - cố vấn CĐ)
Mùa hè năm 1965 tôi giă từ
nghề gơ đầu trẻ, giă từ mấy cô cậu học
tṛ nho nhỏ dễ thương để dấn thân vào gió
bụi chiến chinh, một cuộc chiến phi nhân, phi nghĩa,
bạo tàn, mà theo tôi là bẩn thỉu nhất lịch sử
loài người trên quả địa cầu này.
Người
ta đă nhân danh công bằng xă hội, xóa bỏ áp bức, bất
công để đưa con người đến một
thế giới băng hoại, một thế giới không
tưởng, không c̣n ranh giới quốc gia, không c̣n nền
tảng xă hội, gia đ́nh mà trong đó cá tính, tư tưởng
của con người cũng phải bị chối bỏ. Người ta đă lợi dụng
đến anh linh tổ quốc, đến những ǵ thiêng
liêng của dân tộc để đưa hàng mấy thế
hệ con người vào con đường hủy diệt.
Người
ta đă bán rẻ xương máu của giống ṇi trong một
cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn để
đưa đất nước đến cảnh điêu
linh, nghèo nàn và lạc hậu.
Đất
nước tôi không rộng như Liên Sô “vĩ đại”.
Không giầu như Mỹ quốc.
Dân tộc tôi không đông như Trung quốc vậy mà
phải chịu đủ thứ bom đạn của các
siêu cường th́ c̣n ǵ cái h́nh hài nhỏ bé của dân tộc,
của đất nước tôi.
Sau
Tết Mậu Thân 1968, c̣n đâu là h́nh ảnh thiêng liêng đậm
đà của dân tộc, c̣n đâu là khung cảnh ấm cúng
đoàn tụ của gia đ́nh; chỉ c̣n như phảng
phất đâu đây những h́nh ảnh man rợ, điêu
tàn, giết chóc. Người
ta vẫn c̣n bàng hoàng, ngẩn ngơ như lẩn quất đâu
đây cái kỷ niệm đau buồn, cái dấu ấn đau
thương của dân tộc, cái vết nhơ của lịch
sử.
Khói
súng AK khởi đầu đă tràn ngập làm tanh tưởi
mùi khói hương trầm…
TẾT MẬU THÂN 1968
-KONTUM-
-oOo-
Lần
đầu tiên tôi bước chân xuống phi trường
Cù Hanh của tỉnh Pleiku vào buổi chiều mồng 4 Tết
năm 1966. Nắng vàng nhợt
nhạt, trời rét căm căm.
Cả bốn đứa chúng tôi đều tôt nghiệp
gần cuối bảng nên không c̣n nơi nào khác để
chọn lựa.
Xe
đưa chúng tôi về đơn vị mới: Trung Đoàn
3 Kỵ Binh Thiết Giáp. Đi
qua thành phố Pleiku bao trùm bụi đỏ, bụi trên nóc
nhà, bụi trên vách, bụi trên đường đi, trên quần
áo, trên thân thể mọi người, cả lá cây cũng
không thấy mầu xanh.
Ông
Chi Đoàn Trưởng, Chỉ Huy Công Vụ, tiếp đón
chúng tôi. Sau khi chuyện tṛ qua
loa, ông ta cho người đưa chúng tôi vào ở tạm
trong khi chờ đợi ông Trung Đoàn Trưởng đang
bận hành quân chưa về.
Chúng
tôi ở trong một dẫy nhà tiền chế lợp tôn, vách
cũng bằng tôn và ngủ trên mấy cái giường gỗ
hai tầng dành cho binh sĩ. Cảm
giác đầu tiên của chúng tôi thấy buồn buồn,
mặc dù đă chấp nhận đời lính. Một Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn
Thiết Giáp mà không có một pḥng văng lai dành cho Sĩ Quan?
Đêm
đến lạnh ơi là lạnh. Áo len, field jacket cũng không đủ
ấm. Chúng tôi nằm trong
poncho bấm nút gói lại như gói thây ma mới ngủ được
qua đêm.
Hôm
sau có mấy thằng bạn bên Biệt Động Quân đem
xe Jeep đến chở đi ăn sáng, rồi đi tỉnh
Kontum chơi. Từ trong Miền
Nam mới ra, lần đầu tiên chúng tôi mới thấy
tận mắt núi rừng Cao Nguyên.
Rừng
bao la rừng. Núi rừng trùng
trùng điệp điệp mọc tới tận chân QL14,
Pleiku, Kontum. Qua khỏi núi Chư Pao, Đờ Sỏ Mai, từ
trên dốc cao nh́n xuống thành phố Kontum hiện ra dưới
một thung lũng rộng, dáng dấp của một đồng
bằng Miền Namn giữa cảnh núi rừng.
Chúng
tôi không có nhiều th́ giờ để ngoạn cảnh và đi
sâu vào đời sống dân chúng địa phương nhưng
cũng đủ cảm nhận một cái ǵ gần gũi
và ấm cúng.
Mấy
đứa bạn tôi được bổ nhận vào các
Chi Đoàn Thiết Quân Vận M113.
Riêng tôi đi coi chi đội thám thính ở Cheo Reo.
Chỉ
nghe hai tiếng Cheo Reo, ai cũng h́nh dung ra được
quang cảnh ở đây rồi.
Nhưng ái oăm thay đó lại là một tỉnh lỵ:
Tỉnh Phú Bổn.
Ngoài
cái cơ sở hành chánh ra, nhà cửa của cư dân c̣n ít
hơn một xă ở Miền Nam nhiều. Ty Bưu Điện gồm có một
ông Trưởng Ty, kiêm nhân viên văn pḥng kiêm nhận và phát
thư. Mỗi tuần chỉ
có hai chuyến bay từ Saigon - Ban Mê Thuột ra. Tôi có xe Jeep nên t́nh nguyện lănh thêm
nhiệm vụ đi chở thư cho ông ta. Đem thư về, tôi phụ ông
ta lựa thư để t́m thư nhà.
Phố
chính nơi đây là con đường từ phi trường
vào qua khu hành chánh, ngang qua nhà lồng chợ rồi ra tỉnh
lộ Phú Bổn – Pleiku. Quanh
nhà lồng chợ có mấy dẫy nhà vừa buôn bán vừa
làm nơi cư trú.
Trên
phố chính có một cái quán bán cà phê, nước giải khát
và mấy cái bàn bi da. Tôi không thích
đánh bi da nên cũng không màng tới, nhưng thỉnh thoảng
tôi hay ra quán cà phê cùng với anh Nguyên bên Trung Đoàn 41 bộ
binh để uống cà phê, nước đá chanh và ngắm
nh́n cô chủ quán xinh đẹp.
Chồng của chị cô ta là xếp của anh Nguyên,
nên chúng tôi rất được hoan nghênh ở đây.
Hàng
tháng ông Tỉnh Trưởng gọi tôi cho xe qua lấy gạo,
sữa, đủ thứ linh tinh.
Thỉnh thoảnh tôi cũng có cơ hội ra sân
tennis thao dượt với ông ta, có khi đi săn bắn
thú rừng.
Chi
đội của tôi có 4 thám thính xa M8 từ hồi quân đôi
Pháp để lại và 20 nhân viên.
Hàng ngày chỉ có việc bảo tŕ xe cộ, súng ống
đạn dược…rồi đi tắm ở sông Ba, hoặc
ở các suối nước trong nh́n phong cảnh thiên nhiên
của núi rừng và ngắm các nàng sơn nữ. Thỉnh thoảng một hai tháng
mới có một lần đi hành quân mở đường
Phú Bổn – Pleiku qua bên kia đèo Chư Sê.
Nhờ
có th́ giờ rảnh rỗi như vậy nên tôi nghĩ đến
việc luyện tập thể dục thể thao cho tôi và
binh sĩ kẻo ăn không ngồi rồi cứ tụm năm
tụm ba bàn tán lo sợ dân thiểu số (Thượng)
thư ếm bùa cho đá vào bụng vào trán người này
người kia. Hôm nay th́ đá
vào bụng Thiếu Tá Nhan Nhật Chương TMT. Ông Chương là con của ông chủ
hăng xe Nhan Nhật chạy đường Vĩnh
Long-Saigon. Xưa kia cụ bố
của ông ta là bạn học của cố Tổng Thống
Ngô Đ́nh Diệm nên ông Chương được tin cẩn
giao cho chức Chỉ Huy đoàn chiến xa pḥng vệ Tổng
Thống Phủ. Sau đảo
chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông bị đầy đi Cheo
Reo để ngồi uống rượu cần và ăn thịt
trâu hong khói để quên đi mùi chính trị tanh hôi ở
Saigon.
Ngày
mai th́ đá vào trán ông Trưởng Pḥng 3 ở Tiểu
Khu. Tôi bực ḿnh nói với họ:
Nếu Thượng nó thư ếm bùa chú th́ nó thư ếm
bùa chú vào tôi trước chứ việc ǵ tới các anh lo sợ. C̣n nếu các anh đi cướp
bóc tài sản, hà hiếp vợ con họ, nó thứ ếm bùa
chú th́ chết cũng đáng kiếp, con kêu ca nỗi ǵ nữa.
****
Bóng
chuyền là nghề của tôi từ thủa học tṛ. Cũng v́ giỏi chơi bóng chuyền
mà tôi thi rớt Tú Tài liên miên, trong khi các bạn học người
đỗ Tiến Sĩ làm giáo sư Đại Học (Chị
Bùi Thị Lang). Người th́ làm Hiệu Trưởng
Trung Học… Tuy nhiên, cũng nhờ cái nghề ấy mà tôi
vinh dự được thâu nhận vào học trường
Petrus Kư, một trường trung học nổi danh nhứt
Miền Nam thời bấy giờ.
Thật
ra tôi chỉ là một đấu thủ hạng B, nhưng
nhờ có khả năng đặc biệt là nhẩy không
cần lấy trớn và có cái bộ vó giống như con gà
chết nên đối thủ hay xem thường, khinh địch. Thêm nữa là tôi đánh rất
nhanh bằng cả hai tay và đặc biệt là cản bóng. Hồi thủa học tṛ, tôi đă
từng làm khán giả ngạc nhiên là chận đứng liên
tiếp 3 quả bóng như trời giáng của anh Lạc
(sau này anh là tuyển thủ Quốc Gia) mà tôi chỉ đứng
cao ngang nách anh ta.
Khi
lập đội bóng, chi đội tôi chỉ có 4 anh mới
biết chơi nâng banh, đỡ banh, nhưng được
cái tôi có thêm anh TS Thừa bên Pháo Binh. Anh này đứng “fond” quá vững
và đập bóng cũng khá giỏi.
Thủa
bấy giờ, đội bóng Tiểu Khu vô địch ở
đây. Tôi bảo mời họ
qua chơi. Một anh lính của
tôi bảo: Em không đánh đâu
“búa tạ”, biệt danh của anh thủ quân, đập sặc
máu. Tôi nói: Tôi bảo đảm
với anh, anh ta không đập anh sặc máu được,
ngoại trừ anh đưa mặt ra hứng.
Đôi
khách nh́n qua hàng ngũ bên này bèn bảo: Sẽ ra hai bên cho đều,
đánh như vậy coi không được. Tôi nài nỉ: Mấy anh ráng giúp dượt
cho một ván xem sao, như thế lính tôi mới cố gắng
học hỏi. Mới trái đầu,
anh ta đấm thật mạnh.
Tôi chụp gọn, banh rớt ngay xuống đất. Trái thứ hai, anh “sấm sét” hơn,
banh rớt càng nhanh. Đến
trái thứ ba, tôi chỉ dợm chân mà không nhẩy, anh ta nhẩy
lên, vờ đập rồi bỏ nhỏ. Chỉ chờ có thế, tôi búng
banh gọn trên đầu bàn tay anh ta, bạn anh không vào cứu
thua được. Kể từ
đó, đội banh bị quê cơ luôn, bên này tôi và anh Thừa
bao sân, thường chỉ chơi hai “pass”, hạ luôn hai ván
liền.
Tháng
sau vào chung kết giải vô địch Tỉnh, chúng tôi hạ
đội Biên Pḥng, lănh chiếc cúp vô địch. Tôi gửi công điện về báo
cáo cho Chi Đoàn mà không ai tin cả.
Đới lính như vậy là tiên rồi. Tôi “làm tiên” được 5 tháng
th́ có công điện gọi về Pleiku.
Ông
Trung Tá Tỉnh Trưởng hỏi tôi: Ở đây vui quá,
sao “toi” xin đi. Tôi nói: Thưa
Trung Tá, tôi đâu có xin. Nếu
có, th́ xin về miền Nam, chớ về Pleiku làm ǵ?
Ông
ta rất ṣng phẳng nói: Nếu
“toi” xin đi th́ “moi” cho đi; nếu không “moi” giữ lại. Rốt cuôc, ông ta không giữ được
tôi v́ xếp lớn của tôi cho cố vấn Mỹ xuống
bốc tôi về.
****
Đây Pleiku
Ngày
đầu tiên tôi đến Pleiku máy tháng trước đây
tôi gặp anh La Minh Sơn, bạn học cũ trường
Petrus Kư và là bạn thể thao “bóng chuyền” và là Sĩ Quan
Căn Bản Thiết Giáp trước tôi một khóa. Sắc mặt anh ta tái mét, đôi
môi anh xám xịt, trông thê thảm quá. Tôi hỏi: Mày ở đây bao lâu rồi? Anh nói:
Khoảng 5 tháng kể từ ngày ra trường. Tôi nói với anh ta một câu thật
là lố bịch: Tại sao mày
có thể ở đây lâu như vậy được? Lúc đó tôi nghĩ là vài ba tháng tôi
sẽ kiếm cách thuyên chuyển về Miền Nam; nhưng
tôi quên đi một sự thật rất phũ phàng là tôi
nghèo và không có thế lực. Sơn
bảo tôi: Mày cứ ở đây
rồi sẽ biết. Khí hậu
ở đây nó tàn phá “dung nhan” đàn ông, con trai như vậy,
nhưng lại rất ưu đăi đàn bà con gái. Hầu hết con gái ở đây được
ơn trời ban cho quí tướng “hồng diện”.
Trời
lạnh, má mấy cô ửng hồng như trái đào tiên,
nh́n thấy là muốn cắn.
Nhưng, ờ nhỉ, tôi có thấy trái đào tiên bao
giờ đâu.
Pleiku
“Không có ai muốn đến đây,
Đến đây không ai muốn
ở,
Ở lâu lại không muốn đi,
Đi rồi vẫn nhớ
nhung ray rứt.”
Cái
khắc nghiệt của đất trời nơi này như
không xua đuổi người ta đi, nhưng có một
ma lực nào đó, níu kéo người ta ở lại.
Vào
một đêm khuya, một đôi bạn trẻ chừng như
mới yêu nhau, d́u nhau đi trong mưa lạnh, chàng một
tay che dù, tay kia ôm tṛn eo ếch nàng.
Cả hai vừa đi vừa thủ thỉ qua khu “Biệt
Điện” rồi vào quán cà phê “Dinh Điền”. Hai người lẳng lặng nh́n
nhau, nh́n những giọt cà phê đen rơi tí tách trong ly như
những giọt t́nh đang chẩy đi tí tách trong tim…. Cũng
vào một đêm mưa lạnh, có một anh chàng Kỵ
Binh hào hoa phong nhă lái xe Jeep có cánh gà (chắc chắn không phải
là tôi), nệm bọc êm, bên cạnh là một người đẹp
“nóng hổi”. Tôi dùng chữ “nóng
hổi” đặc sệt Miền Nam mà không dùng chữ nóng
bỏng của các nhà văn… v́ “nóng bỏng dễ làm phỏng
tay đàn ông. Trời sinh đàn
ông, dễ mấy ai mà không thích sờ….
Đêm
về khuya, nàng kêu đói. Cả
hai ghé quán bún ḅ “Dân Y Viện” đở ḷng. Bún vừa cay, gia vị thơm, thịt
ḅ vừa ngậy, ớt th́ cay mà càng cay th́ t́nh càng nồng
thắm. Về nhà, họ lại
tiếp tục ngồi bên ḷ sưởi nh́n lừa củi
cháy reo lách tách. Mùi thơm của
nhưạ cây củi thông tưởng như mùi thơm hơi
thở của người yêu thuở ban đầu.
Năy
giờ tôi mải đám ch́m trong mơ mộng mà quên rằng
ḿnh đang sống giữa “trần ai” chớ không phải
cảnh “bồng lai tiên giới”.
Cũng
vào một chiều mưa rả rích có hai vợ chồng trẻ
d́u dắt nhau đi xuống dốc trơn trượt ở
chợ Gà Cồ, dốc cầu Hội Phú. Anh chồng vác một thùng đồ
trên vai xem chứng quá nặng so với thân h́nh ốm yếu
của anh ta. Chị vợ một
tay bế con, tay kia xách cái túi vải nặng. Đứa bé được quấn
trong tấm khăn cũng rách nát, không c̣n biết là mầu
ǵ nữa. Họ cố nương
tựa vào nhau, bấm các đầu ngón chân xuống đất
cho khỏi trợt té. Ở
Pleiku, xích xe Thiết Giáp c̣n không bám được śnh lầy
khi trời mưa, đôi khi bị trật ra ngoài th́ thử
tưởng tượng đôi bàn chân trần lạnh cóng
của đôi vợ chồng trẻ kia chịu đựng
đến mức nào. Mặt
chị vợ tái xanh như không c̣n hạt máu, nó không c̣n mơn
mởn như trái đào tiên của mấy cô gái Pleiku má đỏ
hồng hồng. Cả hai không
nói với nhau lời nào. Nhưng
trong khoảng khắc thinh lặng ấy lại c̣n hơn
cả muôn vàn tiếng nói yêu đương. Nó cao trọng, đẹp hơn tất
cả những mối t́nh mà chúng ta thường ca ngợi
trên đời này. Trong đầu
óc của họ, tôi nghĩ phải có một ư chí phấn đấu
phi thường, phấn đấu cho sự sống c̣n,
phấn đấu để đổi đời cho họ,
cho con, thay v́ phải ra đi.
Liệu ra đi có t́m được chỗ khác sung sướng
hơn không?
Rồi
một buổi chiều trời quang đăng không mưa, tôi
đi chợ trời mua sắm ít vật dụng cá nhân cần
thiết. Tôi thả bộ dọc
lề đường từ rạp chiếu bóng Diệp Kính
xuống cầu Hội Phú. Gần
cuối đường, tôi chợt nhận thầy có điều
ǵ khác lạ. Bước tới
gần, tôi thấy một việc ngoài sức tưởng
tượng của tôi: Một
người đàn bà đang bán “ḿn claymor”. Hai trái đă bóc
khỏi bao chưng bầy cho khách xem, mấy trái khác c̣n trong
bọc vải ka ki, một số khác c̣n trong thùng. Tôi bước tới gần, ngồi
xuống che tầm mắt người qua lại rồi
thuận tay lấy tấm giấy phủ 2 trái ḿn claymor lại.
Chị
ta hỏi: Ông có mua, tôi lấy
mấy trái khác c̣n trong bao, c̣n mấy trái này để đó
cho khách hàng xem. Tôi ghé tai chị
nói nhỏ: Chị không biết
đây là cái ǵ sao? Ḿn Claymor!. Chị ta cất
vô ngay và t́m cách bỏ đi. Quân
cảnh, Cảnh Sát họ bắt được thứ này,
chị sẽ vào tù, rồi ai sẽ nuôi con chị. Chị ta hoảng hồn, mặt
tái xanh. Thiệt không biết nên
khóc hay cười.
Rất
tiếc, tôi không phải là nhà văn. Đây cũng không phải là thiên
phóng sự nên không muốn đào sâu thêm hoạt cảnh xă
hội Pleiku.
****
Rồi
vào một biểu chiều Chi Đoàn của chúng tôi di chuyển
trở về, sau cuộc hành quân, dưới cơn mưa
lạnh. Chúng tôi ai cũng ướt
nhem như con chuột lột và lạnh run như cẩy sấy.
Xa
xa núi Hàm Rồng thấp thoáng khi ẩn khi hiện dưới
màn mưa mỏng. Lơ lửng
dưới tầng mây, sừng sững giữa trời, hiện
ra h́nh tượng bán thân của một nàng vệ nữ khỏa
thân nằm nghiêng nghiêng, chân trái hơi nhếch lên cao.
Mưa
bụi bay bay và khói núi bốc lên quyện tṛn lấy nhau như
những sợi tơ trời quấn lên đôi chân dài của
người đẹp chạy dài xuống tận chân núi. Ở giữa là khe núi sâu, kết
quả của những ḍng dung nham nóng bỏng chảy từ
mấy mươi ngàn năm về trước, giờ đây
là một dải rừng xanh, xanh ngắt xa thăm thẳm…
sâu vào một địa huyệt nào đó. Đang suy nghĩ vẩn vơ, chợt ông Chi Đoàn Phó gọi tôi vào
tần số đặc biệt:
Đêm Đông, đây Đêm.
Nh́n về phía 2 giờ của anh đi. Tôi thấy rồi. Xin cho tọa độ chính xác. Ông ta cười ré lên, tôi cũng
cười. Tiếng cười
của chúng tôi làm quên đi những gian khổ của chiến
trường, bỏ lại đằng sau những man rợ
của chiến tranh, bỏ lại đằng sau những
Đức Cơ, Pleime, Ia Drang, thung lũng của tử thần,
nơi đă từng chứng kiến cảnh người
giết người, nơi mà người ta đă nhân danh
từ do, công bằng xă hội để đưa đồng
bào tôi, dân tộc tôi vào cảnh huyết nhục tương
tàn.
Hỡi
những “anh hùng cách mạng”, những lănh tụ thiên tài của
đất nước có cảm thấy vinh quang hay không?
Một
chiều rừng mưa, rồi lại một chiều rừng
mưa. Những cuộc hành quân
vẫn cứ tiếp diễn…
Rồi
có một ngày sau chuyến hành quân vất vả thầy tṛ
chúng tôi đưa mấy con ngựa sắt xuống chân thác
An Mỹ để rửa móng chải bờm…. Trời mưa
lạnh rét run, từng cơn gió buốt thổi vào mặt
như kim châm, như thấm vào tận xương tủy. Chúng tôi thay nhau vào cái quán cóc bên đường
để ăn bánh tráng ướt vừa mới ra ḷ, chấm
với nước mắm nguyên chất và uống chút rượu
đế cho ấm bụng.
Chợt Trung Úy Đêm, Chi Đoàn Phó, lái xe xuống gặp
và nói: Trung Tá Luật muốn gặp
anh ngay. Việc rửa xe để
nhân viên họ làm, việc ǵ anh phải xuống đây. Tôi trả lời: Nếu Trung Tá gọi tôi th́ phải
qua Trung Úy, tôi có biết ǵ đâu.
Lên xe, Trung Úy Đêm bảo: Anh về thay quần áo, rồi
qua tŕnh diện Trung Tá ngay. Mà
anh có làm việc ǵ sai không? Tại
sao lại ra Quân Trấn? Tôi cũng
không biết nữa, nhưng nếu tôi có làm điều ǵ
sai th́ ông ta gọi Ban 2 (An Ninh) Trung Đoàn đưa tôi đi,
việc ǵ phải đích thân ông ta.
Khi
vào gặp Trung Tá Luật th́ ông ta bảo: Anh ngồi chờ
tôi một chút. Ông ta đang nói
chuyện điện thoại với ông Chi Đoàn Trưởng
cũ của tôi: Chi Đoàn anh
hiện thừa xe Jeep, anh biệt phái một xe cho Trung Đoàn
kể cả tài xế. Thưa
Trung Tá, Chi Đoàn tôi đâu có dư xe Jeep. Anh có mấy chiếc. Dạ 5 chiếc, 1 cho tôi, 1 ở
Phú Bổn, 1 công văn, 1 xe chợ.
C̣n một nữa ở đâu? Dạ để secour (trừ bị). Trung Tá Luật nói: Người
ta không có xe để đi làm việc c̣n anh dùng xe để
secour, anh đưa chiếc xe secour đó với cả tài
xế, ngày mai cho qua tŕnh diện Chuẩn Úy Đông.
Vậy
là tôi đi làm “Chánh Văn Pḥng” Quân Trấn: một công việc
hoàn toàn xa lạ với tôi và cũng không phù hợp với
khả năng của một Sĩ Quan Thiết Giáp chút nào!
T́nh
h́nh Quân Trấn Pleiku bấy giờ hết sức phức
tạp v́ có sự hiện diện của Bộ Tư Lệnh
Sư Đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ đồn trú tại khu
vực chân núi Hàm Rồng, Tây Nam Pleiku. V́ vậy các quán Bar mọc lên như
nấm nên dĩ nhiên là không tránh khỏi những tệ đoan
xă hội cho tỉnh Pleiku.
Quân
Trấn phải thường xuyên tổ chức các cuộc
hành quân hỗn hợp Cảnh Sát và Quân Cảnh VN cùng với
Quân Cảnh Mỹ. Tất nhiên
là không tránh khỏi đụng chạm đến các vấn
đề dân sự.
Làm
công việc này tôi phải hết sức thận trọng v́
mấy ông Cảnh Sát, An Ninh, Tư Pháp đều là những
nhân vật có bản lănh thượng thừa, lăo luyện đường
đời và am tường luật pháp chứ không ngây ngô
như cái bản chất “thầy giáo” và “lính chiến của
tôi”.
Nếu
ham được tâng bốc, tôi rất dễ bị đưa
lên ngồi trên ḷ lửa hoặc làm bia đỡ đạn
mà là đạn bắn sẻ, bắn từ sau lưng tới.
Trong
đời lính của tôi, tôi không ngán đại bác, hỏa
tiễn, mà chỉ ngán bị bắn sẻ v́ không biết nó
từ đâu tới và tới lúc nào.
Việc
pḥng thủ th́ có xếp lớn.
Ông Quân Trấn Phó-Thiếu Tá Ḥa, Chỉ Huy Phó C2 LLĐB
đặc trách và Thiếu Tá Hoàng Công Duyên từ QĐI về. Ông này rất giỏi về Tham Mưu.
Tôi
có cơ hội quan sát và học hỏi hệ thống pḥng
thủ hiện đại của Sư Đoàn 4 Bộ Binh
Hoa Kỳ, đài Rada phản pháo, v.v….
Một
buổi chiều Chúa Nhật, tôi đang ngồi ăn “Tân
Gia” với hai người bạn mới: Trung Sĩ Thi và
Trung Sĩ Tâm, th́ có điện thoại của Trung Tá L. gọi
tôi: Đông đang ở đâu
đó? Dạ tôi đang ở
Quân Trấn. Giờ này mà c̣n làm
việc sao? Dạ không, tôi mới
dọn ra đây ở từ sáng nay. Vào gặp tôi ngay, tôi có ít việc
cần.
Tôi
vào nhà ông ta trong Trung Đoàn Thiết Giáp. Ông ta đang ngồi ghế sopha với
bà vợ. Tôi chào ông, rồi hỏi: Trung Tá có việc ǵ cần? Ông chỉ tôi ngồi rồi bảo: Tôi có 3 việc nhỏ cho Đông về làm ngay:
T1-Phiếu
tŕnh lên Trung Tướng Tư Lệnh xin bổ nhiệm Quân
Trấn Trưởng khác thay tôi.
T2-Văn
thư đề cử Thiếu Tá Ḥa làm Xử Lư Thường
Vụ tạm thời thay tôi đến khi có Quân Trấn Trưởng
mới.
T3-Về
thu xếp đồ đạc sáng mai theo tôi đi Kontum làm
việc. Ông ta hỏi tiếp: Có ǵ trở ngại không? Thưa không, Trung Tá.
Tôi
không mấy ngạc nhiên lắm về cái lệnh bất ngờ
này v́ mấy ngày trước đây Thiếu Úy Nguyên, bạn
thân của tôi là tùy viên của Tướng Vĩnh Lộc có
gọi cho tôi nói: Ê Đông, xếp
“toi” sắp đi làm lớn, thế nào cũng bắt “toi” đi
theo…
Chiếc
trực thăng vừa bốc lên khỏi Bộ Tư Lệnh
QĐII liền trực chỉ về phía Bắc. Nh́n xuống th́ Biển Hồ hiện
ra ngay phía dưới chân. Mặt
hồ mênh mông, phẳng lặng như tờ, phơi ḿnh dưới
ánh nắng mai, thản nhiên, không một chút se ḿnh cau mặt. Tôi chợt nghĩ mới ba hôm trước
đây, một anh bạn người dân tộc có kể
cho tôi nghe thiên t́nh sử đẫm lệ của một mối
t́nh oan trái: “Nàng, cô con gái, yêu người anh trai ruột của
ḿnh nên bị Thần làng trừng phạt”. Quá đau khổ, uất hận,
nàng khóc măi không nguôi, lệ tuôn trào như suối chẩy,
ngập sâu thành biển. Ngày nay gọi là Biển Hồ. Bên trái Biển Hồ to rộng hơn
v́ có lẽ tại mắt trái gần trái tim hơn nên xúc động
mănh liệt hơn chăng? Tôi
nghĩ thế. Đang thả
hồn đâu đâu, chợt Trung Tá Luật đánh thức tôi dậy. Đông đang suy nghĩ ǵ đó? Tới nơi rồi. Tôi thản nhiên trả lời: Tôi đang nghĩ cuộc đời
biến đổi nhanh chóng quá!
Chắc ông ta ngỡ tôi muốn nói về sư thăng
hoa nhanh chóng trong đời binh nghiệp của ông ta chăng?
chứ không phải trong một giây phút chạnh ḷng nào đó
tôi chợt nghĩ tới: “Cảnh đấy, người
đây luống đoạn trường.”
Tôi
đến ngôi nhà mà tôi sẽ ở cùng “Chef” tôi trong thời
gian tôi “bị” biệt phái lên phục vụ tại Bộ
Tư Lệnh Biêt Khu 24 Kontum. Cái
mà người ta gọi là “Tư dinh Tư Lệnh”, nghe sao
nó to tát quá! Tôi không muốn nói
nó phải có cái bề thế kiến trúc qui mô, có tường
thành bao quanh như nghĩa chữ “dinh”, nhưng ít ra nó phải
là một ngôi nhà chắc chắn có tổ chức pḥng vệ
hữu hiệu khi bị tấn công. “Tư dinh” này bao gồm một biệt
thự xây và một ngôi nhà gỗ cao cẳng (trước
kia là nhà của ông Tham Mưu Trưởng) cách nhau bằng
một cái sân. Phía sau là một
dẫy nhà vách ván lợp tôn dành cho Trung Đội Pḥng Vệ. Chỉ có mặt phía Tây là tiếp
giáp với cư xá Sĩ Quan, tạm gọi là “đơn vị
bạn”. Phía Bắc là nhà của
cư dân, chỉ cách hàng rào kẽm gai bằng con đường
nhỏ tráng nhựa loang lổ.
Phía Đông sát với hàng rào nhà dân chúng. Phía Nam, mặt chánh diện là nhà dân
chúng, chỉ cách nhau bằng con đường nhỏ. Từ nhà ông Tư Lệnh đến
nhà dân chúng đối diện cách nhau không quá 30 mét. Nếu địch bám vào nhà dân để
tấn công “Tư dinh” cả ba mặt cùng một lúc, chúng tôi
chỉ có cách đưa lưng cho chúng đánh.
Mọi
người, ai cũng như tôi, chắc chắn phải đồng
ư với nhau rằng: Khi có đánh
nhau lớn trong thành phố, cái tư dinh này phải là mục
tiêu số 1 của địch quân.
Tôi
là một Sĩ Quan Kỵ Binh Thiết Giáp, tôi quen chiến đấu
trên ngựa sắt. Vó ngựa
của tôi đến đâu, đất rung, cây đổ đến
đó. Đêm đêm nằm ngủ
trong bụng ngựa, nó ấm cái lưng làm sao. Giờ đây sống trong cái tư
dinh này sao nó lỏng lẻo quá mặc dù được pḥng
vệ bời một Trung Đội. Trung Đội vũ khí nặng của
Tiểu Đoàn 2/42 BB, nhưng đối tôi th́ nó chỉ là
một Trung Đội vũ khí nhẹ, không hơn không kém. Vậy là ngày lại ngày qua, tôi cố
gắng kiện toàn lại hệ thống pḥng thủ, từ
cái cḥi canh, vọng gác, lô cốt, hầm ch́m, hầm nổi,
giao thông hào… Đặc biệt là thiết lập thêm hầm
trú ẩn và hầm chỉ huy ăn thông từ trong pḥng ngủ. Việc này th́ tôi không muốn nhờ
Đại Đội Tổng Hành Dinh thực hiện.
Một
buổi sáng nọ, tôi đến xưởng cửa của
Bộ Tư Lệnh. Ông Thượng
Sĩ già, trưởng xưởng, đang ngồi chễm
chệ trên cái ghế dựa, trước mặt là cái bàn
tṛn, trên đó có bộ điếu bát và bộ đồ trà
cổ, cả hai sóng đôi với nhau như một bộ
đồ cổ quí giá. Ông ta
trỏ ghế mời tôi ngồi, rồi cũng chẳng hỏi
tôi đến làm ǵ. Ông trịnh
trọng, hai tay mân mê cái điếu bát, đặt đúng tầm
trước mặt ông, khẽ vuốt cái ống hút, gật
gù một cái, tay ngắt một bi thuốc lào, vo tṛn bằng
hai đầu ngón tay, xoay tṛn đưa vào nỏ điếu
rồi với tay rút một cái đóm tre khô, vuốt nhè nhẹ,
chắc là cho sạch bụi, châm lửa đốt. Ông ta rít một hơi dài, ngă đầu
ra phía sau, nhắm mắt lại tận hưởng, tưởng
như tôi không có ngồi đó.
Trong thật là ứa gan, nhưng tôi vẫn điềm
tĩnh. Hơn một phút sau, ông
ta “tỉnh dậy” rót một chung trà, đánh khà một tiếng
rồi vươn hai tay lên trời, bộ điệu sảng
khoái; xay qua tôi, ông ta nói:
-
Xin lỗi Thiếu Úy.
Bây
giờ Thượng Sĩ sẵn sàng nói chuyện với tôi
chưa?
-
Xin lỗi Thiếu Úy. Sáng nào cũng
phải qua cái thủ tục này tôi mới làm việc được.
Tôi rất thông cảm với nguồn cảm hứng của
Thượng Sĩ, nhưng rất tiếc là tôi không có th́
giờ. Mười lăm phút
nữa tôi phải có mặt ở băi trực thăng Bộ
Tư Lệnh để bay với “Chef” đi thăm các trại
lực lượng đặc Biệt. Ông ta không thích chờ tôi cũng như
tôi đă chờ Thượng Sĩ. Thượng Sĩ vui ḷng ghi cho tôi
những nhu cầu tôi cần, gọi cho tôi khi hoàn tất và
cho xe chở đến tôi.
Đó
là một trong những vấn đề phức tạp thường
xẩy ra ở các Bộ Tư Lệnh và Bộ Tham Mưu
lớn. Ở đơn vị
tác chiến ít khi xẩy ra những việc chướng
tai gai mắt này.
“Chef”
tôi dắt tôi theo, trước tiên với tư cách tôi là một
Sĩ Quan Tùy Viên cho ông ta, nhưng trên thực tế tôi c̣n đảm
trách chức vự Chánh Văn Pḥng Tư Lệnh, mặc dù
ở đó có một ông Đại Úy già đang bị ngồi
chơi sơi nước. Ông
ta chưa học hết tiểu học th́ không thể nào làm
Chánh Văn Pḥng được.
Xếp tôi rất “cẩn thận” không muốn làm văn
thư chính thức bổ nhiệm tôi. Cũng không cần lắm,
v́ tôi có chịu ở đây đâu.
Một
buổi tối, ngồi ăn cơm với ông ta, trong lúc
vui miệng, tôi hỏi: Thưa Trung Tá, tôi ở binh chủng,
Trung Tá đem tôi lên đây biệt phái qua bộ binh, chừng
nào Trung Tá cho tôi về lại Thiết Giáp? Đông hỏi đúng đó. Ông ta bảo. Tạm thời, tôi phải giữ
Đông, v́ ai ở vào vị trí của tôi, cũng phải có
chân tay, người thân tín bên cạnh, tôi hoàn toàn không có. Chị lại kẹt mấy đứa
nhỏ đang học ở Pleiku.
Chừng nào ổn định, tôi sẽ trả Đông
về Thiết Giáp. Tôi nhận
thức Đông là người có kiến thức và khả
năng, đồng thời tín nhiệm và tôi xem Đông như
người thân trong gia đ́nh tôi.
Đông có thể giải quyết mọi vấn đề
có tính cách nhậy cảm ngoài nhiệm vụ thông thường. Cái nào không biết th́ hỏi lại
tôi. Trường hợp khẩn
cấp, ngoài giờ hành chánh có thể xem tất cả công điện
gửi cho đích thân tôi, kể cả mật và tối mật,
cấp báo để tôi kịp thời giải quyết. Ông ta nói và ông ta làm như vậy.
Một
buổi tối kia, gần 1 giờ sáng, ông Đại Úy Chải,
Trưởng Pḥng Truyền Tin Bộ Tư Lệnh, gọi
tôi: Cảm phiền, tao phải đánh thức chú mày dậy. Có việc ǵ quan trọng không, Đại
Úy? Có chứ! Mày có thể qua đánh
thức “Chef” ngay bây giờ không?
Sao lại không? Nếu cần kíp. Được rồi,
5 phút nữa tao sẽ gặp mày.
Năm
phút sau, ông ta mang đến cho tôi xem công điện vừa
“Tối Mật vừa Hỏa Tốc” của Chủ Tịch
Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Thủ Tướng) mời
đích danh Tự Lệnh Biệt Khu 24 họp lúc 9 giờ
sáng tại Saigon mà không thông qua Trung Tướng Tư Lệnh
QĐII (thường không ai xử dụng độ khẩn
và mật như vậy). Ông ta
bảo: Xếp có dặn, nên tao có thể cho mày xem trước
để mày qua đánh thức xếp dậy. Đại Úy Chải về rồi,
xếp hỏi tôi: Trường
hợp như vậy, theo Đông th́ xử trí làm
sao? Tôi biết ông ta có quyết
định rồi v́ bản chất ông ta là người rất
trực tính, không thích phe phái và triệt để phục tùng
quân lịnh. Tôi trả lời: Thật sự th́ tôi không rơ Trung Tá
và Tướng Kỳ có liên hệ chánh trị mật thiết
với nhau đến mức nào?
Nói điều này v́ tôi biết hai ông cùng xuất thân
khóa 1 Sĩ Quan Trừ Bị (Tướng Kỳ ở Nam Định,
ông ta ở Thủ Đức).
Nhưng trên nguyên tắc, Trung Tá nên gọi xin phép Trung
Tướng Vĩnh Lộc, ông ta đồng ư th́ đi, không
th́ thôi, Tướng Kỳ cũng không trách móc được.
Dĩ
nhiên là Tướng Vĩnh Lộc không cho đi. Thực Tế, ông không xem Tướng
Kỳ là chi dù là đương kim Thủ Tướng.
Thủa
bấy giờ, mấy ông Tư Lệnh Vùng là vua một cơi
và Tướng Vĩnh Lộc đang được, ‘tự
tôn phong’ là “Anh Cả Trường Sơn”.
Một
dạo ông ta về Saigon, mặc sắc phục dân tộc,
cưỡi ngựa, ngựa thiệt chớ không phải
ngựa sắt, đi duyệt binh nhân ngày Quận Lực(?)
trông thật oai phong.
“Anh
Cả Trường Sơn” muốn làm nên lịch sử để
đời trên đất nước này, hay ít ra cũng tại
vùng Tây Nguyên, nên đă đưa ra một kế hoạch rất
quy mô gọi là “E Đắp E Năng” (B́nh An) và người
thực hiện là Tư Lệnh Biệt Khu 24.
Chương
tŕnh này nhằm tập trung tất cả dân tộc thiểu
số sống rải rác trong các buôn làng xa xôi dọc theo
QL19 bọc từ bên kia đèo Thanh B́nh vào Đức Cơ,
Pleime, thung lũng Ia Drang về định cư tại
Thanh An.
Chương
tŕnh được sự yểm trợ đắc lực
của SĐ 4 BB Hoa Kỳ; xử dụng hầu hết toàn
bộ lực
lương
trực thăng
để bốc dân đưa về 3 làng đă dựng sẵn
nhà cửa, trạm y tế…. Họ được cấp đất
canh tác, thực phẩm trong 6 tháng(?) hạt giống, phân bón….
Thoạt
tiên, với sự quyết tâm và bầu nhiệt huyết,
mọi việc đều tiến triển hết sức
lạc quan, phấn khởi.
Việc chuyển dân thiểu số từ các vùng xa xôi
hẻo lánh được diễn tiến nhanh chóng và an toàn,
cũng không gặp trở ngại lớn do VC gây ra.
Bước
thứ hai là tổ chức định cư và ổn định
đời sống cho họ. Đây
là một bài toán hết sức phức tạp và nan giải.
Việc
tập trung cư trú là trái với phong tục tập quán lâu
đời của họ vốn là dân du canh du cư. Họ thường tổ chức
làng mạc, nương rẫy ở những vùng đất
mầu mỡ gần suối, gần mạch nước
trong lành để xử dụng nước nấu ăn
và tắm giặt trong khung cảnh thiên nhiên giữa trời
xanh mây trắng hơn là xài nước giếng. Đối
với họ là nước ao tù không tinh khiết.
Việc
cưỡng bách là đi ngược lại ḷng người
mà cái ǵ ngược với ḷng người th́ không tồn
tại được.
Người
dân tộc bản chất đơn sơ, mộc mạc nhưng
tính tự trọng rất cao, họ chỉ thích hưởng
những ǵ do chính bàn tay họ, do mồ hôi nước mắt
của họ đổ ra, chứ không thích hưởng thụ
của người khác. Phải
nói tâm hồn họ rất trong sáng và thánh thiện nữa.
Dạo
trước tôi thường đi hành quân vào các làng Thượng. Tôi nhận thấy họ thường
chứa lúa thóc, ngô, khoai trong các nhà kho dựng trên những
thửa đất cao trống trải và xa nhà ở. Tôi hỏi Y Am, anh Trung Sĩ người
Thượng: Bộ họ không
sợ mất cắp sao? Y Am
trả lời: Người Thượng không bao giờ trộm
cắp của nhau v́ nếu ta ăn hạt thóc không do chính
tay làm ra th́ sẽ xấu hổ với hạt thóc đó. Câu trả lời của Y Am làm “nổ”
cái đầu tôi. Lương
tâm và mắt tôi cũng được mở rộng ra hơn
trước. Từ trước
đến giờ, chúng ta và nhất là các dân tộc văn
minh Tây Phương tự xem ḿnh là thượng đỉnh
trí tuệ loài người, thường xem họ là dân tộc
bán khai, có khi c̣n dùng danh từ “mọi rợ” gán cho họ. Vậy thử hỏi: Ai văn minh hơn ai? Ai mọi rợ
hơn ai?
Ngoài
ra, các cơ quan chánh quyền Pleiku không có đủ cán bộ
có khả năng chuyên môn về tổ chức xă hội, đời
sống nông thôn, ngôn ngữ lại bất đồng với
người Thượng, v́ họ có nhiều sắc tộc
và tiếng nói khác nhau nên không thể gần gũi, đi sâu,
đi sát vào tâm tư t́nh cảm của họ được.
Bầu
nhiệt huyết lúc ban đầu dần dần trở nên
nguội lạnh, cộng thêm một số cán bộ hành chánh
thư lại và tệ hại hơn nữa c̣n lem nhem đến
quyền lợi của họ.
Thỉnh
thoảng cũng có người chết. Dĩ nhiên v́ bệnh tật hay già
yếu ǵ đó, th́ bọn “địch vận VC” có dịp
rỉ tai tuyên truyền: “Đó
là do thầy làng quở phạt”.
Thế nên ngày một ngày hai, họ lẳng lặng bồng
bế nhau đi. Họ đi
về cái sông, cái suối, cái nương, cái rẫy, cái bản,
cái làng. Không ồn ào nhộn
nhịp như khi mới đến trại.
Thế
nên, chỉ vài tháng sau cả 3 làng trước sau đều
vắng bóng người.
“Anh
Cả Trường Sơn” đành phải theo chân bà Huyện
Thanh Quan, ngậm ngùi than thở:
“Lối xưa xe ngựa dồn
chân bước,
Nến cũ giờ đây vắng
bóng người.”
*****
Tôi
sinh ra vốn bản chất ngang tang và bướng bỉnh. Ngay từ nhỏ, tôi không hề
tin nơi vấn đề rủi may, bùa phép, bói toán, cầu
đảo. Số mạng con
người là do trời định, không ai có thể thay đổi
được. Ngày nhỏ tôi
đọc truyện Tam Quốc có đoạn Không Minh lập
mưu dụ ba cha con Tư Mă Ư vào Hồ Lô Cốc, bế cửa
khẩu lại rồi dùng hỏa công để đốt. Ba cha con chỉ c̣n ôm nhau khóc mà chờ
chết th́ trời lại mưa to xuống. Khổng Minh đành phải than rằng: “Mưu sự tại nhân, thành sự
tại thiên.” Ở một đoạn
khác, Khổng Minh biết mạng số ḿnh sắp hết
nên lập đàn cầu trời cho sống thêm 3 năm nữa. Chỉ c̣n một canh nữa thôi mà
đền bổn mạng c̣n sáng, ông rất vui mừng. Nhưng bất th́nh ĺnh, Ngụy
Giêng, một viên vơ tướng thuộc loại hàm hồ,
lỗ măng, đâm sầm chạy vào báo tin làm đèn tắt,
và Khổng Minh không thể nào cải lại mệnh trời
được.
Dạo
trước, khi c̣n là Chi Đội Trưởng CĐ 4/3
TQV, tôi thường được chỉ định dẫn
đầu chi đoàn, dĩ nhiên là cho cả Chiến Đoàn.
Một
buổi sáng, trên đường hành quân vào Đức Cơ,
chi đội tôi sắp vượt qua một khu vực
nguy hiểm: hai bên đường
bị khống chế bởi những ngọn đồi
trải dài tới vùng núi non hiểm trở. Mặt đường lộ được
Công Binh Mỹ ủi khá rộng, hai xe chạy ngược
chiều thong thả. Giữa
mặt lộ VC cắm chông dầy đặc, trải dài
từ đầu dốc này qua đầu dốc kia. Tôi cho hai phân đội lục soát
và chiếm ngự hai ngọn đồi để khống
chế đường đi rồi bước xuống đi
bộ quan sát mặt đường. Trong khoảnh khắc, tôi quyết
định lệnh cho nhân viên xuống xe, chỉ c̣n lại
tôi và tài xế. Tôi hướng
dẫn anh ta chạy cán lên chông mà đi, kết quả an toàn. Tôi báo cáo cho Chi Đoàn; sau đó cả
Chiến Đoàn cứ theo vết xích của tôi mà qua hơn
cả 100 chiếc xe xích lẫn xe bánh đều không việc
ǵ cả.
Nhưng
khoảng xế chiều, Tiểu Đoàn Chiến Xa Mỹ
chạy qua đó cán phải “ḿn ứng chế” (một loại
ḿn chống chiến xa mà VC dùng trái bom 250 cân anh (lbs) ứng
chế). Tôi nghe cố vấn
Mỹ kể lại là chiến xa M48 nặng gần 50 tấn
bị tung lên cao và lỗ thủng dưới bụng xe đường
kính gần 3 feet. Dĩ nhiên tất cả quân nhân Mỹ trên
chiếc xe bị ḿn đều chết hết.
Tôi
xuy nghĩ lại “Ai đă cứu tôi thoát chết?” Chỉ
có Trời. Đầu óc của
tôi không đủ sáng suốt để t́m ra một sinh lộ
cho ḿnh. Cũng từ hôm đó,
tôi học thêm được bài học hay nói văn vẻ
hơn là triết lư của sự sống. Đó là “T́m cái sống trong cái chết,
cái hiểm nguy. T́m cái vinh quang
trong cái gian lao, khổ cực, nhọc nhằn”.
Hồi
đó, tôi là Sĩ Quan mới ra trường, không có kinh nghiệm
ǵ nên không đặt vấn đề tại sao ông Chiến
Đoàn Trưởng không cho toán Công Binh ḍ ḿn đi theo tôi?
*****
Một
hôm, trong buổi cơm tối thân mật tại “tư
dinh”, khách mời là ông Đại Tá Thiện, Tư Lệnh
Biệt Khu Quảng Đà, nguyên là Chỉ Huy Trưởng
Thiết Giáp Binh, một Sĩ Quan Thiết Giáp kỳ cựu
và là đàn anh của xếp tôi.
Lâu ngày họ gặp nhau nên biết bao chuyện hàn huyên
ấm lạnh. Hết chuyện
chính trị chính em xoay qua chuyện thế thái nhân t́nh, rồi
đến tâm tư t́nh cảm.
Ông
Thiện bảo: Này Luật “toi”
biết không? “Moi” là Đại
Tá thâm niên cho cả cấp bậc lẫn chức vụ (Tư
Lệnh Biệt Khu Quảng Đà) và đă được đề
nghị lên Tướng, vậy mà “ông thầy bói” ở đường
Lê Thánh Tôn bảo “Moi” không thể lên Tướng được
và dám làm tờ cam đoan nữa.
Mấy hôm trước Saigon có gọi cho “Moi” nói Tổng
Thống (Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc
Gia) đă chấp thuận. Hôm
nào thuận lợi “Moi” bay về Saigon gắn lon và sẽ đập
bể cái mu rùa của ông ta.
Câu
chuyện ông ta kể coi như là một chuyện vui trong bữa
cơm thân mật. Cả ông Trọng
Luật và tôi cũng không để tâm làm ǵ. Nhưng khoảng một tuần
sau chúng tôi nghe tin chẳng lành.
Ông ta đi phi cơ oanh kích A37 về Saigon gắn lon Tướng
(thay v́ bằng hàng không dân sự Air Vietnam) rồi mất tích
luôn. V́ không xác nhận được
là tử nạn nên không thể truy thăng lên Tướng được. Âu quả là số Trời!
Thời
gian thắm thoát tợ thoi đưa. Thoáng chốc mà đă đến hè. Gia đ́nh của “xếp” tôi từ
Pleiku về đoàn tụ dưới mái nhà được
mệnh danh là “tư dinh Tư Lệnh”.
Nhân
một bữa cơm tối, tôi ngỏ lời với ông bà
xin được đi ăn cơm ngoài để trả
lại cho họ cái không khí đầm ấm của gia đ́nh
và cũng để cho tôi được tự do thoải
mái hơn.
Cả
hai vợ chồng đều không đồng ư, viện lư
do là công việc của tôi rất phức tạp và đa
diện, cũng không có giờ giấc nào nhất định. Nếu tôi đi ăn cơm ngoài,
khi có việc cần phải mất công đi t́m kiếm.
Nhưng
việc ǵ đến rồi sẽ phải đến. Một hôm tôi đang đậu xe
ngoài phố và đang nói chuyện với một người
bạn th́ người chị họ của bà đến
nhờ tôi một việc, nhưng cách ăn nói của chị
ta như là bà con của bà Tư Lệnh nhờ một người
thuộc quyền. Dĩ nhiên là
tôi từ chối.
Sự
việc này tới tai bà Tư Lệnh. Trong buổi cơm tối, xếp
tôi lấy tư cách là một người lớn, một
người thầy, ôn tồn lên lớp tôi bài luân lư giáo
khoa về cách xử thế làm người. Ông ta bảo: Khi ḿnh làm lớn (quan to) mà gặp
lại bà con người thân thuộc trong cảnh hàn vi th́
phải khiêm tốn và ân cần, người ta c̣n khen ḿnh
chớ không ai xem thường ḿnh.
Tôi trả lời xếp ngay không cần suy nghĩ: Những lời Trung Tá nói rất đúng. Khi xưa tôi c̣n là một nhà giáo, tôi
cũng dậy học tṛ tôi y như vậy. Nhưng nó chỉ đúng vào trường
hợp của Trung Tá, c̣n đối với tôi, tôi chỉ làm
việc dưới quyền của Trung Tá, chớ không phải
là thuộc hạ của người bà con Trung Tá được. Quan điểm của tôi là như
vậy. Nếu ông bà xét thấy
cách đối xử của tôi không phù hợp với mẫu
người ông bà cần th́ xin cho tôi trở về Thiết
Giáp.
Bà
ta giận tái mặt v́ không ngờ tôi phản ứng như
vậy; bởi v́ khoảng cách giữa một Tư Lệnh
(ngang hàng cấp Tướng) và một Chuẩn Úy ṭ te mới
ra trường th́ quá xa.
Hơn
thế nữa, dư âm của Đức Cơ, Pleime, Ia
Drang, Thung Lũng Tử Thần…vẫn c̣n vang dội làm rởn
da gà những ai “được” ra phục vụ tại vùng
II chiến thuật. Được
một chỗ như tôi, nếu không phải là “COCC” (con ông
cháu cha) th́ hẳn phải là con nhà giầu, có thế lực,
nếu không th́ phải cúi đầu vâng vâng dạ dạ… Chỉ cần bà lên tiếng th́ cả
khối người xin vào ngay.
Bà chưa kịp phản ứng, th́ xếp tôi vội
ngăn cản giảng ḥa, không khí bữa cơm trở nên
ngột ngạt, lănh lẽo, vô vị.
Tôi
nuốt cơm không vô, bèn lấy xe ra phố ngồi uống
bia….Đường sá vắng tanh, tôi mới nghĩ ra là đă
quá khuya rồi, v́ thấy mấy anh quân cảnh, an ninh cứ
lảng vảng gần đó.
Tôi sực nhớ ra v́ xe tôi đi mang bảng số
“001” của Bộ Tư Lệnh, trước kia là xe của
cựu Đại Tá Tư Lệnh.
****
Rồi…ngày
lại ngày qua, tôi vẫn giam hăm ḿnh trong cái “Văn pḥng Tư
Lệnh”, g̣ bó trong các công việc hành chánh, tham mưu nhàm chán. Tôi ngồi mà đếm từng
thời gian qua đi, lấy đi từng mảng lớn
cuộc đời ḿnh, lấy đi cái tuổi trẻ, lấy
đi cái tự do…. Tôi như con hổ nhớ rừng, nhớ
thung lũng Ia Drang, nhớ Đức Cơ, nhớ những
cánh rừng sâm mầu tím nhạt ngút ngàn. Vào những buổi sáng mờ sương
vó ngựa tôi lướt qua như bay trên tấm thảm thần
trong chuyện cổ tích xa xưa nào đó.
Tôi
nhớ những buổi sáng ngồi trên ḿnh ngựa đùa
giỡn với đàn công trên những cánh rừng già, đường
Ban Mê Thuột. Thỉnh thoảng
lặng lẽ lén nh́n chúng thướt tha lượng ḿnh
trong khúc điệu “nghê thường vũ y” của các nàng
tiên nữ trên cung quảng hàn.
Tôi
nhớ có một đêm trời thật lạnh, sương
mù dầy đặc, chúng tôi ngồi quanh bếp lửa hồng
ś sụp húp từng chén cháo nóng và nhậu thịt con kỳ
đà với rượu đế mua từ một tiệm
chạp phô của người Tầu ở dốc cầu
110. Tôi nuối tiếc những
thứ ấy lắm. Sau nhiều
đêm trằn trọc, nghĩ suy về cái thân phận của
ḿnh. Tôi có quyết định.
Một
buổi sáng, trong giờ làm việc, tôi chính thức bước
qua văn pḥng làm việc của ông ta:
- Thưa
Trung Tá, trước kia Trung Tá có hứa là khi nào chị và
các cháu về đây th́ cho tôi về lại Thiết
Giáp. Vậy hôm nào thuận lợi,
xin Trung Tá cho tôi về Thiết Giáp.
-
Tôi không quên lời hứa ấy, và tôi sẽ cố gắng
t́m người thay thế, ông ta đáp.
Ông
ta bảo t́m người thay thế cho tôi đi, nhưng thực
tế là cả hai ông bà bàn tính với nhau t́m kiếm một
sợi tơ hồng thật chặt để trói chân tôi
lại.
Phải
nói, cả hai ông bà đều có tính khoan ḥa độ lượng,
nếu không th́ họ đă tống khứ con ngựa chứng
này từ cái đêm hôm ấy rồi.
****
Một tiếng sét ái t́nh trong
tim,
Một mối t́nh sóng gió,
Một đám cưới nhiêu
khê, và
Một đứa con h́nh thành
trong lửa đạn…
****
Thủa
bấy giờ, ông Tướng Tư Lệnh Vùng II sống
độc thân tại chỗ nên bổ nhiệm cho phu nhân của
xếp tôi làm Hội Trưởng hội BTGĐBS (Bảo
Trợ Gia Đ́nh Binh Sĩ) Vùng 2 Chiến Thuật. Trong trách vụ này, bà ta thường
xuyên phối hợp, tiếp xúc với các bà Hội Trưởng
của các Khu Chiến Thuật, Tiểu Khu, các Trưởng
Pḥng CTCT (Chiến Tranh Chính Trị), TLC (Tâm Lư Chiến) và XH
(Xă Hội).
Nhiệm
vụ chính của các bà là thường xuyên thăm viếng
gia đ́nh binh sĩ và ủy lạo thương bệnh
binh. Thỉnh thoảng tổ
chức những đêm văn nghệ giúp vui cho các binh sĩ
trấn đóng trên các tiền đồn xa xôi hẻo lánh
hoặc các đơn vị hành quân trên chiến trường
lớn vào dịp lễ Giáng Sinh chẳng hạn. Xung quanh bà ta dĩ nhiên là có nhiều
bà, nhiều cô…và trong số ấy, bà định làm mai cho tôi
một cô “Trưởng Pḥng”.
Trong
một câu chuyện gẫu, ông Tướng Tư Lệnh nói
đùa “Cô mà lấy chồng Thiết Giáp, tôi sẽ chấp
thuận cho chú rẻ đi rước dâu bằng xe M113 kết
hoa.
Cô
này xinh xinh, duyên dáng, lịch duyệt và có óc tổ chức,
dĩ nhiên là quán xuyến nữa.
Nhưng, cái nhưng ấy là cô ta phạm vào điểm
tối kỵ của tôi là từ thửa thiếu thời
tôi thường nghe mấy bà, mấy chị hát ghẹo:
“Ví dầu chồng thấp vợ
cao,
Vợ kêu, chồng dạ, bẩm
bà tôi đây.
Cái
câu này nó đă ăn sâu vào trong tiềm thức tôi có cơ hội
là nó trổi dậy, nhắc nhở tôi. Cô ta hơn tôi về cấp bậc,
cả chức vụ nữa.
Tôi không bao giờ thích đứng nghiêm chào vợ ḿnh
giữa chốn ba quân.
Hồi
tưởng lại thủa học tṛ hoa mộng, định
mệnh trớ trêu nào đó đă đùa bỡn đẩy
đưa tôi quen thân với một tiểu thơ trâm anh đái
các, kín cổng cao tường.
Cha nàng là một viên chức cao cấp trong chánh quyền
Saigon. Mẹ nàng làm chủ một
cơ xưởng sửa xe và mấy chục cái xe Taxi cho
muớn. Mầy đứa bạn
nó bảo nhà cô ta c̣n có tầu đi Miền Trung và đồn
điền ở Blao nữa.
Tầu
đi Miền Trung th́ không nghĩa lư ǵ với tôi cả, cho
dù là cả một đội thương thuyền như
của vương hầu Ithamar, cha của Ben Hur đi chăng
nữa. Nhưng cái đồn
điền Blao th́ tạo cơ hội cho tôi có được
cái thủa ban đầu luyến lưu của tuổi học
tṛ.
Một
ngày Chúa Nhật, tôi đến thăm nàng, tṛ truyện tới
trưa; khi bà vú già mời xuống ăn cơm, nàng bảo
dọn vào pḥng của nàng để hai đứa vừa ăn
cơm vừa tṛ chuyện v́ cả nhà đều đi vắng. Cả nhà đi lên đồn điền
hay vườn cây ǵ đó ở Blao. Đó là lư do tôi thích cái vườn
cây hơn là tầu bè.
Hai
đứa tôi nói với nhau chuyện ǵ? Chỉ là chuyện vẩn vơ,
vơ vẩn. Nàng th́ hồn
nhiên vô tư lự, tôi c̣n vẫn dại khờ. Chúng tôi như hai đứa trẻ
trong chuyện thần tiên:
Ngẩn ngơ hai trẻ t́m
hoa rụng,
Mơ chuyện thần tiên nghĩ
vẩn vơ,
Vẩn vơ với vo vẩn…
Trời
sinh tôi ra để mà mơ với mộng, mộng với
mơ mặc dù tôi không thích buông ḿnh trôi theo ảo ảnh của
cuộc đời.
Chuyện
tôi với nàng phải chăng cũng chỉ là hư ảo? Nhưng dù sao đó quả là một
hiện thực, dù hiện thực này chỉ xẩy ra
trong các trường thiên tiểu thuyết t́nh sử của
một thời xa xưa nào đó đă lâu, lâu lắm rồi,
trong thi ca lăng mạn.
*****
Thế
rồi vào một buổi chiều năm 1963. Giờ định mệnh điểm,
ngay sau cuộc biến động chánh trị lớn ở
Saigon. Tôi với nàng vĩnh viễn
xa nhau.
Nàng
sang Pháp du học (cùng với 3 anh em), c̣n tôi th́ vào lính rồi
đi tù cho đến tàn cả đời trai.
Tôi
nghĩ rằng, trên đời này từ việc nhỏ đến
việc lớn, từ con người cho đến xă hội,
quốc gia và thế giới, tất cả đều theo
sự tuần hoàn của vũ trụ. Ngay cả một viên ngói rơi, một
cây đổ và đổ vào khi nào, có đổ trúng ai không?
đều do bàn tay nào đó sắp đặt; hay nói khác hơn
là định mệnh đă an bài rồi.
Một
buổi chiều thứ Sáu, sau khi tan trường, tôi về
nhà, cơm nước nghỉ ngơi rồi ngủ một
giấc nhẹ, đến 12 giờ đêm đi xe khuya lên
Saigon. Rời bến xe, tôi đến
nhà nàng. Tôi đi thẳng vào
trong v́ cổng rào không khóa - lại “cổng rào”. Không khóa, anh cứ vào đi “như
năm xưa, buổi ban đầu tôi mới gặp nàng.”
Nàng
đang ngồi đọc sách trên ghế sô pha.
-
Anh ăn sáng chưa? Chi nhờ chị vú dọn cho.
-
Thôi khỏi đâu, anh không cần ăn. Tôi đáp.
Rôi
hai đứa tiếp tục tṛ chuyện đến gần
trưa. Chúng tôi nói với nhau
những chuyện ǵ? Bây giờ
nếu ai có hỏi tôi cũng không nhớ nổi. Nếu là đôi trai gái nói chuyện
yêu đương th́ cho dù thời gian bao lâu cũng không đủ. Nhưng ở đây, tôi với nàng
chỉ là bạn, vả lại tôi là đứa con trai nghèo
nàn ở tỉnh lẻ, ít biết ăn nói, không b́ được
với mấy cậu công tử c̣n nhà giầu và quyền
thế ở Saigon.
Bất
chợt nàng bảo tôi:
-
Ở “Lê Lợi” (rạp chiếu bóng thường trực
ở đường Lê Thánh Tôn, thường là nơi họp
mặt của học sinh, sinh viên và giới trẻ Saigon) có
một phim mới hay lắm (chắc chắn không phải
là phim “Love Story” rồi, v́ h́nh như phim này ra đời 10
năm sau.
-
Anh đi xem đi. Tôi bảo:
-
Chi cùng đi với anh nhé.
-
Chi xem rồi, anh đi đi.
-
Vậy th́ anh không đi. Ở
nhà nói chuyện vui hơn.
-
Thôi để Chi cùng đi với anh, để anh đi một
ḿnh tội nghiệp.
-
Chừng nào ḿnh đi.
-
Khoảng 2 giờ chiều nó bắt đầu vào phim. Nếu anh không có việc ǵ, th́ ăn
cơm trưa ở đây, rồi 1 giờ 30 ḿnh đi. Tôi đáp:
-
Anh cần qua thăm người anh, anh sẽ trở lại
đây trước 1 giờ 30 rồi cùng đi.
Tôi
qua nhà anh Tư thăm anh chị; định ăn trưa
xong, sẽ trở lại. Gần
1 giờ 30 mà ảnh c̣n đi nhậu nhẹt đâu đó
chưa về. Chị Tư bảo:
-
Chú có việc, cứ đi đi, ảnh nhậu nhẹt biết
tới bao giờ. Tôi rất
thương yêu và tôn kính anh như một người cha, nên
không dám đi, trước khi ảnh về.
Khi
anh tư về, tôi chào từ giă.
Từ nhà tôi ra tới đường cũng mất
hơn 5 phút. Thật là một
ngày rủi, hôm đó không đón được Taxi. Hơn 10 chiếc đi qua, chiếc
nào cũng có khách.
Tôi
đến nhà nàng trễ hơn 15 phút. Nàng ngồi trên cái ghế sô pha ban
sáng, mặc áo dài trắng học tṛ nhưng đôi má điểm
phơn phớt hồng. Tôi
quen nàng cả ba năm nay chưa bao giờ tôi thấy nàng
trang điểm.
-
Xin lỗi Chi, anh tới trễ quá.
-
Không sao đâu, thôi ḿnh đi - Nàng bảo.
Vừa
bước xuống thềm nhà th́ ba má nàng cũng vừa
xuống xe bên garage, bước qua:
-
Tụi con đi đâu đây?
Má nàng hỏi.
-
Con đưa anh Phương đi xem phim ở Lê Lợi –
Nàng đáp.
-
Không được đâu con.
-
Sao vậy má.
-
Ba má từ Saigon mới về.
Sinh viên biểu t́nh lớn ở khu Đại Học
Văn Khoa. Cảnh sát kéo kẽm
gai chận đường và bắn cả lựu đạn
cay. T́nh h́nh rất sọi sục,
nguy hiểm lắm, chúng con đừng đi.
-
Có sao đâu má - Nàng trả lời.
-
Má bảo không được mà, hai đứa ở nhà đi.
Đột
nhiên nàng trở nên cương quyết.
-
Có chết là cùng, có ǵ mà phải sợ - Má.
Rồi
nàng nắm tay tôi kéo đi.
-
Thôi ḿnh đi, đi anh, trễ rồi.
Má
nàng bảo:
-
Trời ơi! Má bảo không được má.
Tôi
đứng trơ trơ, như Từ Hải chết đứng
giữa trận tiền. Ba nàng
cũng đứng cười gượng. Không khí hết sức căng thẳng. Má nàng bảo:
-
Phương, con khuyên Chi dùm bác đi con.
Dĩ
nhiên là tôi phải khuyên. Nàng vẫn
chưa hết bực dọc.
Mẹ nàng tiếp:
-
Thôi con vào bảo chị bếp lo cơm cho anh Phương
con ăn cơm chiều ở đây. Và, đó là buổi chiều cuối
cùng chúng tôi gặp nhau.
Cảm đề một buổi chia
tay
-o O o-
Anh đă hẹn nhưng anh đà
đến trễ
Ḷng em buồn, em đâu nỡ
trách anh
Cho dù chỉ, một lời rất
nhẹ
Anh đă hẹn, cớ sao anh đến
trễ
Để đường đời,
đôi ngả đôi nơi.
Gót chân son, em đến miền
hoa thơm cỏ lạ
Anh trở về gánh vác nợ
non sông.
Bạn t́nh anh là gió núi mây ngàn
Là núi núi, rừng rừng – núi
rừng trùng điệp
Ia Drang – “Tử thần trung lũng”
Pleime, Đức Cơ, Phượng
Hoàng (1)
Núi rừng thiêng liêng là cơ đồ
của Tổ Quốc
Có phải đâu là nơi huyết
nhục tương tàn?
Tam Biên Banhet – nơi giao lưu
ba nước
Phải đâu là cổng chào đón
rước giặc cướp xâm lăng
Cháu con của cáo Hồ - đă
thành tinh thành quỷ
****
Anh không hẹn, nhưng ngựa
hồng (2) dẫn đến
Mái hiên nhà “Lệ Ngọc (3) năm
nao
Nh́n cánh lan rừng, anh chợt
thấy xuyến xao
Tưởng như ánh mắt
năm xưa lặng nh́n
Gió nhẹ thoảng, hương
lan ngây ngất
Chừng như hơi thở
tỏa hương trinh.
****
Anh không hẹn, nhưng anh vừa
chợt thấy
Chiếc cầu ṿng, ai bắt
từ trời cao
Ắt cho Chức Nữ t́m về
Ngưu Lang
****
Anh không hẹn, nhưng hoàng hôn
cứ đến
Lời cuối cùng, anh không lỗi
hẹn với em.
(1)-Núi
Phương Hoàng gần Đức Cơ.
(2)-Nhuốm
bụi đỏ Pleiku.
(3)-Thác
Lệ Ngọc, Làng Thanh An (Pleiku)
****
Trở
lại chuyện mai mối.
Phu nhân của xếp tôi có nhiều cô em bạn d́, toàn
là những gia đ́nh có tiếng tăm và giầu có ở các
tỉnh lỵ nhỏ bé miền Cao Nguyên này.
Ban
đêm, khi rảnh rỗi, bà rủ tôi đi thăm họ. Trời sinh tôi ra vốn khờ khạo,
chậm lụt trong việc đối đáp và không biết
ăn nói, nhưng bù lại cho tôi cái giác quan thứ sáu rất
mạnh. Tôi không dám nói là đọc
được tư tưởng người khác, nhưng
thường cảm nhận được ư nghĩ của
họ.
Qua
những lần tiếp xúc chuyện tṛ, tôi cảm thấy
họ thường đứng trong vị thế là bà con của
ông bà Tư Lệnh. Dĩ nhiên
là tôi cũng đứng rất vững trên đôi chân của
tôi, dù là nhỏ bé. Thành thử công việc không đi tới
đâu cả.
Một
buổi sáng chúa nhật, cũng như mọi ngày chúa nhật
khác; sau khi ăn sáng xong, tôi vào nhà thờ Sư Đoàn chờ
ông ta ra, để cùng vào Bộ Tư Lệnh nghe thuyết
tŕnh.
Tan
lễ, bà hăm hở đi về phía xe tôi:
-
Chú có thấy cô tóc dài, mặc áo dài trắng không?
-
Dạ không. Tôi đáp.
-
Cái cô đi chung với cô T… đó.
-
Em cũng không thấy cô T…nữa.
-
Chú này thiệt là…
Vừa
lúc ấy xếp tôi bước đến chỗ chúng tôi
-
Bữa nay, anh có ǵ cần chú lên BTL không? Bà ta hỏi.
-
Cũng không có ǵ cần. Ông ta đáp,
rồi nói:
-
Mấy người muốn đi đâu th́ đi.
Vậy
là bà bước lên xe tôi ra “nhà nàng”. Qua mấy phút hàn huyên ấm
lạnh, “bà mai” vô đề:
-
Lâu quá rồi, không có dịp đi thăm rẫy cà phê của
d́ dượng, thỉnh thoảng muốn ghé, nhưng không
nhớ rơ chỗ nào, vả lại cũng không có ai đưa
đi để mở cổng.
Cha nàng bảo:
-
Hồng, con đưa chị ba xuống rẫy chơi đi.
Vậy
là tôi được cơ hội đi thăm vườn
nhà nàng. Lại tới chuyện
cái vườn. Cái vườn
năm xưa là một sự t́nh cờ ngẫu nhiên. “Cái vườn” bây giờ là một
chủ định.
Đến
nơi “bà mai” và hai cô con gái tách riêng để tôi với nàng
tṛ chuyện. Chuyện ǵ đây? Khó nói quá, nhập đề ra
sao? Không lẽ nói về Cao
Nguyên gió lạnh mưa mùa hay Kontum trời mưa trời nắng
ra sao vậy cô?
Đi
tới giữa vườn mà cả hai vẫn c̣n thinh lặng. Thỉnh thoảng trong sương
mai, hương thơm của hoa cà phê ngạt ngào làm tôi ngây
ngất tưởng như mùi hoa thiên lư trên mái tóc nàng.
“Tóc em dài, em cài hoa thiên lư…”
Tôi
muốn ví von như vậy, nhưng thốt chẳng nên lời. Văn chương, chữ nghĩa
đi đâu mất cả rồi, dù trước kia tôi là một
giáo sư Việt Văn (*).
Về
nhà “bà mai” hỏi tôi:
-
Em thấy cô ta ra sao?
-
Cô ấy có mái tóc dài nên thơ và trữ t́nh lắm. Tôi đáp.
Ít
hôm sau, bà ta gọi pḥng TLC liên lạc với MACV mượn
một cuốn phim về chiếu tại nhà và tôi tự
nguyện làm tài xế đi đưa đón nàng. Lần này th́ cóc mở miệng.
Rồi
ngày lại ngày, chúng tôi gặp nhau cũng đôi ba lần và
thường t́m hiểu t́nh cảm nhau qua các “đài tiếp
vận”.
Vậy
mà chiến xa tôi đă bị mái tóc dài óng ả kia, như có
một ma lực vô h́nh nào đó quấn chặt, không c̣n chạy
được nữa.
Ba
tuần lễ sau, tôi đi cùng xếp xuống Nha Trang. Ông ta đi dự một phiên họp
với các Tư Lệnh vùng, Khu, tại BTL Quân Khu, dưới
quyền chủ tọa của Chủ Tịch UBLĐQG.
Họp
xong, mấy xếp lớn đi dự dạ tiệc và nhẩy
đầm. Tôi lái chiếc xe
Jeep của Đại Tá CHT BCH2TV, chạy chơi một ṿng
thành phố, rồi ghé vào một Kios trên bờ biển, ăn
cơm tối, uống bia và nh́n trời để đếm
các v́ sao.
Trong
phút chốc, tôi đă trở về với con người
trầm mặc cố hữu… Từ xa khơi vọng lại
tiếng th́ thào, hơi thở của trùng dương, đưa
tôi đi xa ngàn dậm với thực tại.
Hướng
về sao chức nữ, tôi cố t́m xem “sao bổn mạng”
của nàng và tôi có đi cùng một quĩ đạo không?
Quá
khuya, xếp tôi về. V́ trời
c̣n nóng, cả hai trăn trở không ngủ được,
tôi hỏi xếp:
-Tụi
em quyết định lấy nhau, như vậy có nên chăng? Hay quá hấp tấp, e không đủ
thời gian, thử thách, t́m hiểu nhau.
Quả
thật, trên đời này, không có ai ngốc bằng tôi. Ai mà đi hỏi “ông mai” có nên lấy
cô ấy không?
Chưa
đầy tháng sau, nhân có chuyến đi công tác áp tải tiền
bạc cho Ty Ngân Khố, bố mẹ nàng đồng ư để
nàng đi. Cho tôi theo hộ tống
và tạo cơ hội để ra mắt mẹ tôi.
Về
tới Saigon, tôi gọi điện thoại về tỉnh
mời mẹ lên Saigon có việc khẩn cấp mà không nói rơ
việc ǵ. Tội nghiệp, tôi
làm mẹ tôi lo sợ v́ hồi đó có con đi quân đội
miền Cao Nguyên th́ dữ nhiều lành ít.
Trông
thấy nàng dâu tương lai xinh đẹp, mẹ tôi mừng
lắm, cũng mừng v́ tôi chịu cưới vợ chứ
không phải ngồi chờ cái cô đi Tây, theo bà nghĩ.
****
Mẹ
tôi đích thân lên Kontum để làm lễ hỏi vợ cho
tôi và ông bà mai đại diện cho nhà trai. Trong buổi lễ, mẹ tôi ngỏ
lời: “Nếu bên đàng trai muốn xem ngày lành tháng tốt
để làm lễ cưới, có ǵ trở ngại không? Dĩ nhiên bên nhà gái chấp thuận.
Rồi
không biết v́ mẹ tôi nóng ruột muốn sớm có nàng dâu
hay v́ mấy ông thầy tướng số mà chọn ngày cưới
quá cần kề.
Chuyện
cũng không khó khăn, trở ngại ǵ cho gia đ́nh đôi
bên; nhưng rồi đất bằng lại dậy sóng từ
bên ngoài đưa đến.
Nàng
là cô gái đẹp ở tỉnh (tôi không dám nói là hoa khôi) nên
không biết bao nhiêu chàng trai đeo đuổi. Trong số ấy có anh chàng Trưởng
Ty, Trưởng Sở ǵ đó trồng cây si trước
nhà đă khá lâu, nay bị phỗng tay trên nên tức giận
bèn tŕnh với Cha Sở: “Cuộc hôn nhân này có ngăn trở
v́ tôi chưa được rửa tội theo phép đạo
mà nhà gái đă cho làm lễ hỏi, đồng thời cha
Tuyên Úy bên trai chưa điều tra kỹ lưỡng mà đă
chứng nhận độc thân.
Theo anh chàng đó th́ cái bộ mặt già khú đế
của tôi ít ra cũng có hai ba đời vợ rồi và
con rơi con rớt chắc cũng rải khắp bốn
vùng chiến thuật, làm sao tin được mấy ông nhà
binh.
Quả
thật là cái mặt tôi ngố và già nữa, mắt lại
một mí, lù đù, nên trông càng già thêm khi cha vợ tôi lên tŕnh
cha sở để làm phép hôn phối, ngài khăng khăng
khuớc từ và yêu cầu chờ đợi một thời
gian để điều tra kỹ lưỡng hơn.
Đó
là một sự bẽ mặt cho gia đ́nh bố mẹ vợ
tôi và cả cha Tuyên Úy đă chứng nhận cho tôi nữa. V́ t́nh trạng bất khả kháng,
cha vợ tôi bèn lên tŕnh trên Ṭa Giám Mục, Đức Cha Setz
phát quyết:
-Nêu
cha sở không làm phép cưới, ngài chỉ định
cha…anh của nàng thực hiện.
Gia đ́nh c̣n đang phân vân v́ không muốn làm mích ḷng
cha xứ.
Mấy
ngày sau, nàng bị cảm cúm ǵ đó, nghỉ ở nhà mấy
hôm mới đi làm lại được; nhưng vẫn
c̣n phải mặc áo ấm. “Đối
phương” bèn giăng thêm một đ̣n tàn độc hơn:
“Không chừng ốm nghén chứ ǵ?”
Việc
này đă xúc phạm nặng nề đến danh dự một
gia đ́nh công giáo kỳ cựu, nổi tiếng là đạo
hạnh ở đây. Cha nàng là
một chức sắc cao cấp trong giáo sứ và anh trai nàng là một vị
linh mục khả kính.
Thủa
học tṛ, tôi thường đọc đi đọc lại
một cách say mê tác phẩm “Người sói Mowgli” (The Mowgli
Wolf) của Rudyard Kipling (Joseph) giải thưởng Nobel về
văn chương năm 1907.
Ông
ta đă lên án xă hội loài người. Trong đó “con người không có
tính người, nhưng vẫn luôn luôn tự phong là sinh vật
thượng đẳng trên quả tinh cầu này. Trong khi loài dă thú, mẹ sói, lại
cưu mang con người. V́ ḷng
hy sinh và yêu chuộng lẽ công bằng nên đem trả
“con người” về cho loài người. Nhưng loài người lại chối
bỏ đồng loại của ḿnh.
Cũng
trong thời gian này, cha xứ công bố ngài phải đi dưỡng
bệnh hay trị bịnh ǵ đó ở Đà Lạt! Cả
hai gia đ́nh chúng tôi đều hết sức phiền muộn
về việc này nên không tiến hành lễ cưới dù được
phép của Đức Giám Mục.
Cha
của nàng báo tin cho cha xứ là hai gia đ́nh sẵn sàng chơ
đợi một thời gian vô hạn định để
cho cha được vui ḷng và để ngài xem cái bụng
của cô dâu có ph́nh to lên không? Như miệng lưỡi của
kẻ ác tâm.
Rốt
cuộc, cái bụng nàng không ph́nh lên mà cái eo nàng càng thon nhỏ. Thời gian cứ trôi như nước
chẩy dưới cầu và việc ǵ rồi cũng qua đi….
Đến
khi phấn sáp trôi đi hết th́ cái bộ mặt thật
của con người ḷi ra.
****
Gia
đ́nh nhà gái rộn rịp tổ chức đám cưới. Như trên đă nói, gia đ́nh nàng
và cả bà con vọng tộc đều có bề thế ở
Kontum nên muốn làm đám cưới cho trọng thể
(em của vị linh mục mà)
Họ chê cái
nhà hàng ở đây nấu ăn phục dịch không ra ǵ nên
các gia đ́nh họp nhau tổ chức nấu nướng,
thết tiệc.
Bà mẹ vợ
tương lai của tôi đề nghị: heo, gà, ḅ, th́ xoàng
quá, nên có thêm món đặc biệt.
Đó là “thịt trừu” rất được cha cố,
nhất là các cha cố Tây ưa thích. Ở Kontum làm ǵ có ai nuôi trừu. Muốn có, phải đi nhà thờ
An Khê (gần Qui Nhơn) với đường xa khoảng
200 Km.
Bà mẹ vợ
tôi xung phong lănh phần trách nhiệm. Bà là một đầu bếp trứ
danh, nổi tiếng các món thịt rừng và từng nấu
thịt trừu cho các cố Tây ở Ṭa Giám Mục. Bà bảo tôi là nếu có xe th́ bà sẽ
đi mua. Tôi nói với bà là xe
th́ không khó ǵ, nhưng đường xa quá, cũng không an
ninh ǵ, mà mai đă đăi tiệc, lỡ về không kịp
th́ sao? Bà bảo tôi là không hề
ǵ đâu.
Sáng sớm,
anh tài xế xe Dodge (3/4 tấn) chở bà đi mua trừu. Tôi đi làm. Tới xế chiều tôi gọi
về nhà, bà cũng chưa về.
Sau 4 giờ chiều tôi gọi xuống Tiểu Khu
Pleiku và các đơn vị Thiết Giáp giữ đường
Kontum-Qui Nhơn cũng không ai thấy tâm dạng đâu. Năm giờ rưỡi chiều,
tôi bảo toán quân cảnh ở lại hộ tống xếp. Tôi về nhà bỏ cây AR15 lên xe, tài
xế Phú trèo lên. Tôi bảo “Đây
là việc riêng của tôi; tôi không muốn phiền anh, nhưng
anh ta không chịu.”
Tôi chạy tới
“đồi cát trắng”, ngă ba vào trại LLĐB Plei Te (Tou
Mơ Rông), tôi thấy chiếc xe chở trừu nằm vạ. Anh tài xế K. Sor loay hoay măi mà không
sửa được. Tài xế
Phú sửa cái bơm xăng nên xe di chuyển được,
nhưng không suông sẻ lắm, ́ ạch chạy rồi cũng
qua khỏi chân núi Chư Pao. Tôi
thở ra cái ph́ nhẹ nhơm.
Về tới
gần Kontum, th́ gặp trại Lôi Hổ án ngữ. Sau 8 giờ tối, họ không cho
ai đi qua, dù là ông nào. Sau cùng, tôi sực nhớ ra, anh cô cậu
của nàng làm Chỉ Huy Phó ở đó. Vậy là thoát.
Về tới
nhà đă hơn 9 giờ tối, bà con đang chờ đợi. Tôi quá mệt mỏi và mấy chú
trừu lại kêu lên inh ỏi.
Bực ḿnh quá tôi nói: “Tụi bay có im đi không? Trừu
ơi là trừu.” Quả là vô
lễ và vô ơn đối với bà mẹ vợ đă lo
lắng cho ḿnh, nhưng bà rộng lượng không trách móc
ǵ tôi cả.
Đám cưới
của chúng tôi quá trọng thể và linh đ́nh ngoài sức
tưởng tượng của tôi. Nó không lăng mạn và độc đáo
như trong “Mầu tím hoa sim.”
Tiệc tùng
kéo dài tới 2 ngày đêm. Phải
khoản đăi cha cố và quan khách lớn một ngày trước
phép hôn phối, v́ không thể đăi khách c̣n lại sau đêm
Tân Hôn được.
Tôi th́ không thích
ồn ào như vậy, nhưng hết sức cảm động
và biết ơn sâu xa các đấng sinh thành đă hy sinh cho
vợ chồng tôi như vậy.
Sau buổi
tiệc đêm thứ hai cũng là đêm chót. Khi những khách trẻ cuối cùng
ra về, mọi người quây quần lại dọn dẹp.
“Cảnh chợ chiều” nó bề bộn và vất vả
làm sao. Theo chương tŕnh là
ngày mai phải đưa dâu về Saigon, nên mọi việc
phải thu xếp cho xong để hoàn trả lại các
gia đ́nh cho mượn dụng cụ. Tất cả mọi người
đều làm việc nên cô dâu ngại ngùng không dám ra về
với chú rể.
Hơn hai tiếng
đồng hồ chờ đợi, tôi hết sức bồn
chồn và sốt ruột, đứng ngồi không yên. Chú rể nào th́ chắc cũng như
tôi thôi.
Gần 2 giờ
sáng công việc mới xong. Tôi
thấp thỏm ra xe định “đưa nàng về
dinh”. Nàng thẹn thùng bẽn lẽn,
nói nhỏ với tôi:
-
Hay là anh ở đây với em đi. Ngoài đó lính tráng không. Sáng ngủ dậy trông thấy họ
kỳ quá anh à. Tôi hóm hỉnh
trêu nàng:
-
Có ǵ đâu mà kỳ. Mặt nàng
đỏ bừng lên.
Nói
vậy chứ tôi rất thông cảm sâu xa hai chữ “kỳ
quá” nàng dùng, nên đành phải chịu thôi.
****
Sáng
ngày thứ nhất của tuần trăng mật của
chúng tôi, mọi người đều lo thư xếp hành
trang để đưa cô dâu về nhà chồng.
Sau
khi ăn uống, nghỉ ngơi, mọi người ra sân
bay trước 1 giờ chiều để đáp chuyến
bay dự kiến cất cánh lúc 2 giờ. Lại một phen chờ chờ,
đợi đợi. Gần
2 tiếng đồng hồ mà không thấy phi cơ xuất
hiện ở chân trời. Lại
một phen bồn chồn sốt ruột như tối hôm
qua.
Măi
đến 3 giờ chiều phi cơ mới đến và
khoảng một giờ sau th́ cất cánh. Lên phi cơ, tôi nói đùa với cô
vợ mới cưới:
Chồng gần không lấy, đi
lấy chồng xa,
Mai sau cha yếu me già,
Chén cơm đôi đũa, bộ
kỷ trà ai dâng.
Nàng
véo tôi đau điếng, rồi hỏi: Tại ai?
Phi
cơ về tới Saigon th́ trời đă chập tối. Thời tiết xấu, trần mây
lại thấp, không đáp xuống được, nên phải
bay ṿng ṿng trên không phận để chờ cơ hội. Mưa to, gió mạnh giật từng
cơn nên phi cơ cứ trồi lên trụt xuống như
thuyền nhẩy sóng, làm hành khách ói mửa lung tung.
Khi
chiếc xe ca đưa hành khánh đến trạm hàng không
gần ga xe lửa Saigon th́ đă hơn 8 giờ tối. Tài xế hai chiếc xe ra đón
chờ không được vừa mới đi ăn cơm. Phải chờ thêm nửa tiếng
nữa họ mới quay lại v́ hồi đó không có cell
phone nên không thể gọi họ được.
Rốt
cuộc, cả đoàn khi về tới khách sạn trong Chợ
Lớn th́ đă hơn 9 giờ tối. Tắm rửa, ăn cơm tôi
xong th́ đă quá khuya. Vợ chồng
tôi quá mệt mỏi nên đi nghỉ. Vả lại, chúng tôi cũng không
muốn cái đêm huyền diệu thần tiên đó lại
xẩy ra ở nơi này.
****
Sáng
ngày thứ hai của tuần trăng mật, mọi người
đều phải thức dậy lúc 4 giờ sáng, ăn lót
ḷng cho đỡ dạ, rồi lên xe trực chỉ về
miền Tây mong sao qua được 2 chuyến đ̣ (bắc
Mỹ Thuận và bắc Cần Thơ trong ngày.)
Đến
bắc Mỹ Thuận, tất cả hành khách đều phải
xuống xe đi bộ qua đ̣.
Nhân cơ hội đó, mọi người đi “xả
bầu tâm sự” và mua quà cáp. Ở
đây nổi tiếng về ổi xá lị, xoài cát, mận
hồng đào và ốc gạo.
Vợ
tôi và cô phù dâu kéo nhau đi t́m nhà vệ sinh. Theo bảng hướng dẫn, cả
hai đi về phía “hầm cá vồ”. Đó là một cái ao lớn có thiết
trí khoảng hơn 10 chỗ ngồi, che phên nứa sơ sài.
Người Miền Nam chúng tôi vốn mộc mạc đơn
sơ nên gọi đó là “hầm cá vồ” hay “cầu cá vồ”
cũng không sao.
Sau
này khi Cộng Sản Miền Bắc “giải phóng” được
Miền Nam mới đem luồng “ánh sáng văn minh ưu
việt xă hội chủ nghĩa”, soi rọi dậy dỗ
người Miền Nam, biết sống sao cho phù hợp với
“nếp sống văn hóa mới” và người ta đă dùng
mỹ từ “ao cá bác Hồ” để gọi thay “cầu
cá vồ cho có thanh tao hơn”.
Cũng
từ dạo ấy, mấy con “cá vồ xă hội chủ
nghĩa” nó cũng phấn khởi, hồ hởi hơn lên
bội phần, lúc nào cũng ăn to, quẫy mạnh, no bụng
và cũng no cả mắt nữa, nên ḿnh mẩy bóng lộn
và mắt cũng sáng ra.
Cô
phù dâu xân xái ngồi vào. Chỉ
nghe tiếng “chủm” là tiếng rồ rồ dậy lên, nước
bắn tung toé. Cô ta hoảng hồn
kéo quần lên, đứng dậy chạy vào bờ. Cô ta vừa thở hổn hển
vừa nói:
-
Kinh khủng quá, nó suưt cắn trúng em.
Tôi
bảo:
-
Nó không thể nhẩy tới cô được. Cứ tiếp tục đi.
-
Em không dám xuống nữa, cô ta bảo.
-
Vậy th́ phải chờ tới nhà tôi vậy.
-
C̣n bao lâu nữa?
-
Khoảng hơn 3 tiếng đồng hồ nữa, tôi bảo.
-
Em không thể nín lâu như vậy được. Làm sao đây?
Cuối
cùng, phải nhờ anh tài xế vào xin đi nhờ nhà cầu
trong quán cơm.
Về
gần tới nhà tôi, cả xóm ào ra xem mặt cô dâu. Mấy cô học tṛ của tôi biết
tin cũng kéo đến v́ nghe đồn thầy cưới
cô Sơn Nữ Phà Ca ở xứ Thượng.
“Sơn
Nữ Phà Ca” là một thiên t́nh sử vang bóng một thời
và thường được tŕnh diễn trên sân khấu
cải lương thời đó.
Lũ trẻ c̣n nhau nháu:
-
Cô dâu đẹp như tiên vậy.
Đứa khác lại nói:
-
Mà sao kỳ vậy. Mọi mà
không có đuôi, lạ quá.
Không
biết cô vợ mới cưới của tôi có nghe chăng?
Tối
đến, sau khi cơm nước xong xuôi, chúng tôi sắp
về pḥng, mẹ tôi kéo tay tôi lại nói nhỏ:
-
Tối nay bảo vợ con xuống đây ngủ với mẹ.
-
Sao lạ vậy mẹ, tôi thắc mắc.
Mẹ
tôi bảo:
-
Tại v́ chưa đăi tiệc.
Tôi
mới vỡ lẽ th́ ra: “Nếu chưa đăi khách th́ chưa
động pḥng.”
Sang
ngày thứ ba của tuần trăng mật, chúng tôi được
nghỉ ngơi lấy sức, v́ là một ngày trừ bị,
pḥng hờ xe bị kẹt bắc phải ngủ lại dọc
đường.
Tôi
có dịp đưa nàng đi thăm viếng quang cảnh ở
đây.
Cái
nhà thờ Công Giáo trước tiên – dĩ nhiên rồi. Sau đó tôi đưa nàng đi viếng
các chùa Miên - với tôi là kiến trúc đặc thù của một
nền văn minh cổ đại thuộc đế quốc
Khmer, một thời xưa vang bóng, nay đă đi vào lịch
sử từ mấy mươi ngàn năm ǵ đó.
Người
Miên họ rất sùng bái đạo Phật, nên đă hy sinh
cả tiền tài, công sức để xây dựng chùa chiền,
thế hệ này sang thế hệ khác.
Mỗi
chủa đều có một chiếc “ghe ngo” – ghe đua. Nó là biểu tượng cho tinh thần
thượng vơ và thể thao, là sức mạnh và sự giầu
sang phồn thịnh của làng.
Chiếc
ghe này dài khoảng 30 mét?; làm bằng cây “độc mộc”,
móc ruột ra để làm khoang chèo, lại là chèo đôi nên
phải là cây cổ thụ thật to. Tôi nghĩ, có lẽ bắt nguồn
từ các rừng già bên Cambodge họ đốn được,
dùng voi kéo và thả bè xuống theo sông Hậu Giang.
Mũi
thuyền cao khoảng đầu người, có chạm trổ
h́nh ḱnh ngư hay loài thủy quái nào đó trong truyện thần
thoại Khmer.
Người
chỉ huy đứng trên mũi thuyền cầm gậy chỉ
huy điều khiển hàng mấy chục tay chèo và những
người đánh cọng… sao cho sống động nhịp
nhàng, khi nhặt khi khoan, khi rầm rập, khẩn cấp. Ông ta như tướng quân ngoài mặt
trận hay người nhạc trưởng trên bục chỉ
huy - mệnh lệnh phải hùng hồn, cương quyết
và dứt khoát, nhịp điệu phải rơ ràng, minh bạch.
Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, thuyền không
đi được.
Vào
dịp lễ đưa rước này, những người
Miên nghèo, họ phải vay tiền cắt cổ, bán lúa non,
hay công gặt để lấy tiền tiêu xài, nhậu nhẹt
thả ga trong ba ngày hội, rồi sau đó phải làm lụng
vất vả. Có gia đ́nh suốt
năm phải ăn ốc bươu và cua đồng, cá
tôm bắt được, đem đi bán lấy tiền
trả nợ.
Khoảng
nửa đường từ Sóc Trăng vào quận lỵ
Băi Xàu, rẽ sang tay mặt độ 300 mét có ngôi chùa Miên lớn
– chùa “Mă Tộc” hay c̣n gọi là Chùa Dơi v́ ở đây dơi
quạ hằng hà vô số kể.
Chim c̣ đủ loại bay ra bay vào giống như một
phi trường quốc tế nhộn nhịp nhứt.
Ban
ngày dơi móc chân vào nhánh cây, tḥng đầu xuống đất
mà ngủ. Trời chạng vạng
tối mới bay đi kiếm ăn. Mùa nhăn, măng cầu ta, nó bay về
phía Vĩnh Châu. Băi Giá (phía Nam).
Ăn hết nhăn, nó bay về phương Đông ăn
quả các vườn cây ở Đại Ngăi, trên bờ sông
Bassac. Nó bay từng đàn qua
thị xă Sóc Trăng, khoảng 2 tiếng đồng hồ
mới dứt.
Có
người bảo, huyết dơi là một thần dược
trị bệnh xuyễn. Ba tôi
nghe vậy đưa tiền cho mấy người Miên bắt
trộm dơi đem về cắt tiết ḥa với rượu
đế cho chị tôi uống.
Thịt th́ bầm nhỏ nấu cháo đậu xanh
cho chúng tôi ăn (muốn không có mùi hôi th́ phải lấy mấy
cục xạ, tựa như máu bầm, ở hai bên nách dơi). Uống hết tiết mấy con
dơi th́ chị tôi khỏi bệnh xuyễn. Lúc ấy chị khoảng 16, 17 tuổi
ǵ đó. Suốt đời chị,
bệnh không hề tái phát. Tôi
thấy sao th́ nói vậy, không biết nó có hiệu quả
cho tất cả mọi người không chớ không phải
để quảng cáo thuốc trị bệnh xuyễn, mà
trên thực tế cũng không dễ ǵ bắt mấy con dơi
v́ luật nhà chùa nghiêm cấm mà nó lại không đậu ở
mấy nhánh cây de ra ngoài ṿng rào.
*****
"Sóc
Trăng là xứ quê mùa”?
Tôi không dám nói
thế và cũng không muốn nói thế. Dân ở đây pha trộn mọi
sắc tộc. Người Việt
chính tông th́ ít, đa số là người lai – lai Tầu,
lai Miên. Cha Tầu, mẹ Miên gọi
là “đầu gà đít vịt”…
Bản tính họ
đơn sơ, mộc mạc và hiền ḥa. Hầu hết là dân “làm ăn buôn
bán” nên ít khi câu nệ về lễ tiết.
Tiệc cưới
ở đây cũng đa dạng, tùy thuộc vào hoàn cảnh
và phong cách của từng gia đ́nh. Đa phần tổ chức rất
thực tế và thuận cho việc làm ăn. Khách đến chúc mừng, cho quà
cáp - cứ đủ mười người là mời vào
bàn tiệc và được phục vụ ngay. Thế cũng đơn giản,
v́ không mất th́ giờ chờ đợi nhau và cũng tránh
được sự buồn ḷng v́ có kẻ trọng người
khinh, kẻ ăn trên ngồi trước, kẻ ngồi xó
xỉnh cuối pḥng; nhưng về h́nh thức th́ mất đi
sự long trọng của một lễ cưới.
Đám cưới
của chúng tôi ít nhiều cũng thuộc phần đa dạng. Hầu hết khách được
mời là giáo sư (hồi đó gọi thế) ở các
trường Trung học công và tư thục ở đây. Ở Sóc Trăng họ biết tôi
là nhà giáo nhiều hơn là lính chiến, dù vậy trong suốt
tiệc cưới, họ mở nhạc toàn là “Những đồi
hoa sim. T́nh anh lính chiến. Chiều mưa biên giới…”
Khách lớn
tuổi, già cả, bạn của mẹ tôi th́ biết tôi
qua h́nh ảnh một cậu bé siêng năng giúp việc buôn
bán tảo tần, trông nom cửa hàng cho mẹ tôi và tính toán
giỏi. Tuy vậy cũng không
giỏi và nhanh bằng cách “tính rỏ” của mẹ tôi v́ bà
có biết chữ nghĩa ǵ đâu.
Có hôm, sau ngày
cưới, tôi đưa nàng vào một nhà hàng người
Tầu ở phố chính “Hai Bà Trưng”. Bà chủ vừa nom thấy chúng tôi
đă gọi với ra sau:
-A
Múi à – “thằng thầy mầy” cưới vợ rồi,
ra mà coi.
Cưới
nhau xong là đi – Năm giờ sáng hôm sau, vợ chồng tôi
phải ra xe đưa bà mẹ vợ và cô phù dâu lên Saigon để
cùng về Kontum với cha vợ tôi.
Trở về
nhà, chúng tôi có một ngày thoải mái bên nhau, rồi sáng hôm
sau - lại đi. Đi Saigon để
về Kontum, v́ đă hết hạn nghỉ phép.
Vừa xuống
phi trường, anh tài xế bảo:
-Về
nhà, Thiếu Úy gọi ngay cho Trung Tá.
Ông
ta muốn nhờ tôi đi ngay một chuyến liên lạc
về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II mà không tiện nhờ
người khác.
Chiếc
trực thăng bốc tôi lên, trực chỉ - cũng về
phương Nam, nhưng lần này không có “nàng thơ” ngôi bên
cạnh. Tới Biển Hồ,
tôi sực nhớ đến câu chuyện t́nh oan nghiệt,
ngang trái, đầy nước mắt của đôi uyên ương
người Thương. Không
biết t́nh yêu của tôi với nàng có măi măi tươi đẹp
và viên măn không? Sao mà lắm nhiêu
khê, trắc trở đến thế. Chắc phải có – v́ thuận ḷng
trời và được mọi người chúc phúc… Vậy
là: “Một tuần trăng mệt” qua đi. Chúng tôi thật sự bước
vào một đời sống mới.
****
Trời
sinh tôi ra bản chất đơn sơ thực thà, không có
tham vọng và cũng không thích nhờ cậy ai. Tôi chỉ thích hưởng cái ǵ
trời cho hoặc chính do bàn tay tôi làm ra.
Ngày
càng lớn lên, tôi có quan niệm rơ ràng về thời cuộc:
“Không có một siêu cường nào giúp đỡ cho các nước
nhược tiểu một cách vô vụ lợi.” Mấy anh Cộng Sản tuyên truyền
rằng: Mỹ là đế quốc. Liên Sô và Trung Quốc “vĩ đại”
là bạn hữu nghị muôn đời, núi liền núi, sông
liền sông, kiểu như ái t́nh không biên giới vậy.”
Thật
ra, tôi không hiểu họ định nghĩa chữ “vĩ
đại” như thế nào.
Theo cái đầu óc ngây ngô của tôi, th́ cả hai anh
to đầu này không có ǵ để tự hào ḿnh là vĩ đại
cả.
Tôi
không nói ngang bướng đâu.
Lịch sử c̣n rành rành ra đó, không thể chối
căi được. Một “Liên
Sô vĩ đại” đă thảm bại nhực nhằn
trước vó ngựa của Napoléon ở thế kỷ
18, phải nhờ đến ông “Thần Mùa Đông” mới
giải tỏa được thủ đô Mạc Tư
Khoa. Rồi sang thế kỷ
20 lại bị đoàn ngựa sắt của Hitler nghiền
nát. Nếu không nhờ cuộc
đổ bộ của đồng minh ở Normandy, c̣n lâu
mới rút ra khỏi gót giầy xâm lược của Đức
Quốc Xă.
C̣n
cái anh Ba Tầu “vĩ đại” lúc nào cũng vỗ cái bụng
phệ đầy mỡ sa, tự cho ḿnh là “cái rốn của
vũ trụ” là “đỉnh cao của trí tuệ loài người”. Coi nước nào, dân tộc nào cũng
là man di mọi rợ hết.
Thủa
xa xưa, bọn “rợ” phương Bắc hung hăn quá, khiến
“Thiên Triều” phải đưa người đẹp
Chiêu Quân đi hiến tấm thân ngà ngọc, đáng giá ngàn
vàng dâng “Hán” cho “Mông” (Hô) để cầu xin hai chữ bằng
an cho các đấng trượng phu thiên quốc. Nhục chưa.
Rồi
đến bọn “Nam man” mất dậy, đă làm chi đó
khiến cho đại tướng Thoát Hoan phải chui vô ống
đồng chạy về Tầu.
Chưa
hết đâu, sang thế kỷ thứ 19, tám thằng “bạch
qủy” từ phương Tây kéo qua, xẻ thịt con lợn
Tầu lấy mỡ, không biết để làm ǵ, v́ mỡ
heo không làm bạch lạp được.
Sang
thế kỷ 20, lại càng nhục nhă hơn. Một đế quốc to bằng
một đại lục, dân đông nhứt hoàn cầu và
thường tự hào là ở đâu có khói là có người
Tầu. Họ chỉ cần
tuôn trào xuống biển Đông mà “tiểu” cũng đủ
gây ngập lụt làm trôi các ḥn đảo bé tí teo của mấy
chú lùn kia đi. Vậy mà trong Đệ
Nhị Thế Chiến bị mấy anh Nhật đánh cho
một trận thất điên bát đảo, chạy trối
chết đến nỗi không c̣n biết hướng nào là
hướng Đông để chạy ra biển mà đái.
Nếu
Nhựt Bổn không đầu hàng v́ hai trái bom nguyên tử
bây giờ chắc bên “Thiên quốc” sẽ có nhiều “Xẩm
Geisha” để chiêu an bọn mọi phía Đông.
Bây
giờ nói đến đệ nhất siêu cường trên
thế giới này. Mỹ có phải
là “đế quốc” không? Tôi
nghĩ: từ ngàn xưa hai chữ này vô h́nh chung hoàn toàn đồng
nghĩa với nhau. Vấn đề
được đặt ra là Mỹ có phải là người
bạn tốt của dân tộc Việt Nam không? Và ngay những người lănh đạo
VN cả 2 miền có khi nào tự đặt câu hỏi là ḿnh
đă làm ǵ cho dân tộc, cho đất nước hay cứ
đổ lỗi hoặc cúi đầu thờ phượng
ngoại bang?
Trên
cương vị là một người lính chiến, tôi
cho rằng lính Mỹ là một chiến hữu, một đồng
minh tốt. C̣n trên phương
diện quốc gia, chánh quyền Mỹ chỉ theo đường
lối, chánh sách nào có lợi cho đất nước họ
mà thôi. Trong giai đoạn này,
quân chánh quy Bắc Việt đă được Mỹ bật
đèn xanh để xâm lược miền Nam VNCH qua đường
ṃn Hồ Chí Minh. Họ đưa
các đại đơn vị qua ngả Tam Biên (Banhet) và lập
các căn cứ địa vùng Bắc và Đông Bắc
Dakto, Tân Cảnh.
Khoảng
cuối năm 1967, Bộ Tư Lệnh Biệt Khu 24 được
tăng cường hai Chiến Đoàn Dù và một Liên Đoàn
BĐQ, phối hợp với Lữ Đoàn 173 Không Kỵ
Hoa Kỳ, tổ chức một cuộc hành quân lớn đánh
vào mật khu Dakakoi, đông bắc Dakto.
Trong
một buổi thuyết tŕnh tại Bộ Tư Lệnh
Tiền Phương của Lữ Đoàn 173 Không Kỵ, đích
thân Tướng Westy (William C. Westmoreland) Tổng Tư Lệnh
Mỹ tại Việt Nam đến thanh sát và tán thành kế
hoạch xử dụng B52.
Trong buổi cơm trưa tại BCH/MACV Kontum, ông ta c̣n
vui vẻ hứa hẹn. Tôi ngồi
cạnh Đại Tá Kauffman, cố vấn trưởng
BTL/BK24, nên chỉ cách ông ta có hai ghế nên mặc dù vốn
liếng Anh ngữ của tôi c̣n “ba rọi” những vẫn
có thể hiểu được lời ông ta nói.
Nhưng
sau đó khoản mươi ngày, trong buổi cơm trưa
tại câu lạc bộ Phượng Hoàng Pleiku, Trung Tá Nguyễn
Khoa Nam, Chiến Đoàn Trưởng Dù (sau này là Thiếu Tướng
Tư Lệnh Quân Đoàn IV, vị anh hùng tuẫn tiết
khi Miền Nam VNCH thất thủ) có nói với xếp tôi: “Các mục tiêu đánh B52 rất
chính xác, nhưng đều quá trễ. Ai đă báo trước cho Việt
Cộng?” Điều này rất
nguy hiểm cho quân bạn. V́
theo yêu cầu của Mỹ, khi xử dụng B52 th́ ta phải
đưa quân vào kiểm soát.
Cứ theo thói quen đó th́ chính ḿnh đặt cái bẫy
cho ḿnh để các đại đơn vị Việt Cộng
ập vào tiêu diệt.
*****
Vào
những ngày cuối năm, thời gian cơ hồ trôi qua
nhanh hơn thường nhật.
T́nh h́nh chiến sự có phần lắng dịu rồi
đột nhiên trở nên yên tĩnh một cách dị thường,
bao trùm một không khí nặng nề đến ngạt thở.
Có
thực Việt Cộng chuẩn bị thực thi ba ngày Tết
hưu chiến như họ cam kết? Ai mà tin Việt Cộng được. Tin t́nh báo ghi nhận có 3 Sư Đoàn
chánh quy chủ lực của CS Bắc Việt sẽ tấn
công Kontum. Theo nguồn tin có giá
trị nhất do cung từ của một cán binh CS thuộc
Sư Đoàn 118 quân chánh quy BV đă vượt qua sông Poko hạ,
từ hướng Tây tiến vào Kontum qua ngả Phương
Qúy.
BTL/BK24
ban hành lệnh khẩn trương cấm trại 100% cho tất
cả các đơn vị đồn trú trong lănh thổ 2 tỉnh
Kontum, Pleiku kể cả BTL/QĐII.
Sáng
ngày 30 Tết, Trung Tá Luật bảo: Tôi phải lên phi trường Phượng
Hoàng (Tân Cảnh) để giám sát việc bốc 2 Chiến
Đoàn Dù trả về Bộ Tổng Tham Mưu. Đông ở nhà giúp chị tiếp
các phái đoàn bên Tỉnh và Hội Đồng Tỉnh cùng
các thân hào nhân sĩ đến chúc Tết, sau đó duyệt
lại hệ thống pḥng thủ.
Việc
thứ nhứt vừa xong, tôi cho lệnh tập họp
Trung đội pḥng vệ, toán Quân cảnh hộ tống và
toán cận vệ: V́ t́nh h́nh
nghiêm trọng, các anh phải triệt để thi hành lệnh
cấm trại 100% và cấm bắn súng thay pháo trong ba ngày Tết. Tuy nhiên v́ phong tục tập quán và
t́nh cảm gia đ́nh, tôi cho phép các anh được hưởng
50% ban ngày. Kể từ đêm
nay:
- Tất cả đều phải
ngủ tại pháo đài, vọng gác.
- Nếu có biến động,
ai ở vị trí nấy chờ lệnh tôi.
- Bắn hạ tất cả
những ai chạy lộn xộn trong sân.
- Để các anh được
thoải mái, ngay bây giờ tôi đưa các anh lên sân bắn
“Lôi Hổ” để các anh có cơ hội thử tất cả
các vũ khí nặng, đến tối không c̣n ngứa tay
ngứa chân nữa.
Tôi gọi Đại Đội
THD cung cấp phương tiện, vũ khí, đạn dược. Mấy anh lính bộ binh rất thích
thú được xử dụng đại liên 50 pḥng không. Sau khi thực tập, điều
chỉnh và bảo tŕ vũ khí, mọi người về
chuẩn bị cơm nước, nghỉ ngơi. Bất chợt, tôi nhấc điện
thoại lên gọi Trung Úy Sanh, Đại Đội Trưởng
THD:
-Trung Úy bảo họ chở đến
cho tôi cây súng đại liên 30 bắn thử hồi sáng và
50 thùng đạn.
-Chừng nào “dượng” cần.
-Tôi cần ngay bây giờ, cho
chở đến ngay, tôi chờ.
Xế chiều, vợ tôi đi
thăm bố mẹ, anh chị em trở về. Vừa vén màn bước vào thấy
khẩu đại liên nằm ngạo nghễ trên chân ba càng,
phía sau 50 thùng đạn xếp theo h́nh bán nguyệt. Cô vợ trẻ phân vân hỏi:
-Ngày tư, ngày Tết anh đem
cái của nợ này về nhà để làm ǵ?
-Biết đâu có việc xài. Tôi thản nhiên đáp.
Chiều lại Thiếu Tá Tài
TMT/BK gọi báo tin chẳng lành:
-Xe ông ta bị mất cắp,
trên đó có đầy đủ đặc lệnh truyển
tin của BTL và các đơn vị đồn trú….
Đó là một triệu chứng
địch chuẩn bị tấn công. Xếp tôi ra lệnh pḥng truyển
tin cấp tốc thay đổi đặc lệnh và cho báo
động các đơn vị đồn trú trên toàn lănh thổ
Biệt Khu 24 cẩn mật đề pḥng.
Đêm 30 Tết, vợ chồng
tôi đi mừng tuổi bà nội (đă hơn 100 tuổi),
ba d́ và chúc Tết mọi người, sau đó ra hang đá
Đức Mẹ, bên ngoài Tiểu Chủng Viện để
cầu nguyện. Đường
phố vắng tanh, v́ ai ai cũng đang quây quần trong mái
ấm gia đ́nh để chờ đón giao thừa.
Về nhà, vợ chồng chúng
tôi cùng nhau uống chén rượu nồng để đánh
dấu những ngày hạnh phúc bên nhau. Trong khoảng khắc đêm trường,
tôi chợt nghĩ – ngày xưa khi c̣n đi dậy học, vào
dịp Tết tôi và nhà văn Nguyễn Tử Quang đă chọn
bài thơ chủ đề mừng Xuân để đang trên
b́a đặc san Tết của trường Trung Học
Lam Sơn…
“Tháng lụn, năm cùng,
sự chẳng cùng
Nửa đêm Xuân, lại
nửa đêm đông
Chi lan tiệc cũ buồn
man mác…”
Đêm nay cũng trong bối cảnh
nửa đêm đông lại nửa đêm Xuân, ngồi đối
ẩm bên người vợ nóng bỏng mới cưới,
đẹp như một bài thơ, hương lửa c̣n đang
nồng cháy th́ c̣n cảnh nào thần tiên hơn – nhưng tiếc
thay bên cạnh đó là một ụ súng đại liên 30 với
50 thùng đạn nằm trơ trẽn, lạnh lùng vô tri vô
giác. Đó là một sự tương
phản rất phũ phàng và nghiệt ngă, khiến tôi không
khỏi trạnh ḷng, tim tôi quặn thắt.
Tháng đă lụn, năm đă
cùng rồi, nhưng chừng nào cuộc chiến tranh bẩn
thỉu, huyết nhục tương tàn này mới cùng tận,
chừng nào máu người Việt mới hết đổ
ra.
Gần nữa đêm, pháo giao
thừa bắt đầu nổ ran cộng với tiếng
súng bắn thay pháo. Xếp lớn
và tôi cùng bước ra sân. Ông
ta bảo: Đông gọi Thiếu Tá Quân Trấn Trưởng
ghi danh mấy ông đơn vị trưởng có lính bắn
súng thay pháo phạt mỗi ông 8 ngày trọng cấm, đưa
lên tôi. À Đông xem lại cẩn
thận việc bố pḥng, tôi nghe có cả tiếng súng
AK.
- Tôi cũng có nghe, Trung Tá yên tâm. Tất cả lính tráng đều
ngủ tại lô cốt.
****
Tôi về pḥng, hai vợ chồng
d́u nhau trong giấc ngủ mơ màng.
- Mơ một cái Tết thanh
b́nh.
- Mơ quê hương VN không c̣n
khói lửa và mọi người thương yêu nhau như
con một nhà.
Giấc mơ chưa trọn
vẹn, tôi phải choàng dậy v́ bên tai tiếng hỏa tiễn
122 ly rít lên trong đêm tĩnh mịch, xé gió mà đi rồi
liên tục nổ ầm ầm về hướng Bộ Tư
Lệnh. Cùng một lúc điện
thoại bên Tổng Đài Liên Minh reo:
*Trung Tâm Hành Quân báo cáo BTL bị
pháo kích nặng. Tôi chưa kịp
nói ǵ, bên Liên Tưởng, Trung Tá Đ. Tỉnh Trưởng Kontum gọi:
- Tŕnh Trung Tá TL.
- Thưa Trung Tá, tôi là Thiếu
Úy Đông.
- Anh tŕnh Trung Tá Tư Lệnh
cho chiến xa qua giải cứu, tôi đă bị tràn ngập.
Biết có biến động
mạnh, tôi vội mang dây súng, khoác lên người chiếc
áo field jacket, chụp cây súng AR15 (của Trung Tá Nguyễn Khoa
Nam Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn Dù cho) và mở
máy truyền tin gọi chiến xa.
Chuẩn Úy Đào Sawuh lên máy, tôi bảo:
- Anh xuống đây gặp tôi
ngay.
Vợ tôi ngồi bên mép giường. Tôi rút cây súng colt 45, lên đạn đưa
cho nàng:
- Em ra sau hầm trú ẩn, ngồi
ngay miệng hầm, bất cứ ai bước vào mà không
lên tiếng trước là bắn liền không phải hỏi. Nàng cầm súng, tay run run bước
đi.
Tôi ra ngoài hành lang, bước
xuống cầu thang, bên cạnh là chiếc xe Dodge gắn
khẩu đại liên pḥng không 12ly7. Cùng lúc Thượng Sĩ Sóc và tài
xế Phú cùng đến. Ngay
khi ấy một tiếng nổ rất mạnh, khói bốc
nghi ngút từ pháo đài phía sau, có lẽ B41. Tôi cho xe chạy xuống đó và
cho lệnh bắn hết 1 thùng đạn để phản
công v́ sợ địch tràn ngập.
Tạm yên, tôi lên pḥng xếp,
mở các máy truyền tin liên lạc với Trung Tâm Hành Quân,
tôi bảo:
- Tôi đă cho lệnh xử dụng
đại liên rồi và chiến xa cũng trên đường
xuống đấy. Ông ta bảo:
- Đúng vậy.
Bước ra ngoài, tôi gặp
TS I Lâm Chinh, cận vệ. Tôi
hỏi:
- Mấy anh Quân Cảnh đâu?
- Tôi không thấy.
- Anh bảo HS Ksor lấy một
anh bếp đưa chiếc xe Jeep gắn đại liên
30 ra trấn cổng trước.
Cùng lúc đó TS Thiệu thiết giáp cũng có mặt:
- Anh lấy một người
phụ tiếp đạn, rồi lên pḥng tôi lấy cây đại
liên 30 ra lô cốt phía sau nhà tôi.
Vén màn ra sẽ thấy, nhớ lên tiếng trước,
nếu không, vợ tôi bắn các anh. Tôi nghĩ giá mà vợ tôi đứng
đấy, tôi sẽ trêu nàng:
- Đó thấy chưa? Anh đoán như thần mà. Có việc xài rồi đấy. Như vậy là tạm yên v́ bốn
mặt đều có vũ khí nặng, chiến xa cũng vừa
đến.
Tôi trèo lên mái lô cốt bảo ông
Thượng Sĩ Phúc, chi đội phó:
- Anh báo cho ông chi đội trưởng
ra giải tỏa khu vực xung quanh tư dinh rồi cho một
xe vào bố trí chỗ các lô cốt phía sau ngó qua nhà thờ
Tin Lành. Anh ta bị ù tai v́ trên đường
đi xe bị bắn B40 nên hỏi lại:
- Cái ǵ Thiếu Úy?
- Thôi được rồi,
anh cặp xe sát vào đây, tôi lên.
Khi tôi bước lên pháo tháp, anh cởi nón nghe định
trèo ra ngoài, nhường ghế trưởng xa cho tôi.
Tôi ngồi trên pháo tháp, thủ
cây đại liên 50 pḥng không rồi bảo ông ta:
- Anh cứ chỉ huy xe anh, tôi
chỉ hướng dẫn.
Vừa tới ngă tư, một
bên là câu lạc bộ Hương Sơn, bên kia là cư xá Sĩ
Quan, địch bắt đầu nổ súng vào xe tôi. Tôi bắn gần hết thùng đạn
và xe đang nằm ngang hông cư xá Sĩ Quan. Tôi bảo Thượng Sĩ Phú:
- Anh lắp đạn
“canister” vào và tác xạ trước khi vào vị trí. Ông ta hỏi lại:
- Cái ǵ? Thiếu Úy.
Tôi la to: “Canister”!
Cùng lúc đó một vầng lửa
lớn ngay trước đầu xe và một tiếng nổ
thật mạnh gây chấn động đẩy tôi lọt
vào trong pháo tháp, cây súng AR15 cũng rớt vào xe (bị rỗ
nát cả).
Trong vài giây? bất động,
tôi ngồi dậy. Dưới
ánh sáng lờ mờ trong pháo tháp, tôi thấy anh tài xế đang
quay xe tại chỗ, tôi bảo:
- Anh quay xe lại đi đâu?
- Tôi đưa Thiếu Úy đi
nhà thương, Thiếu Úy bị thương rồi không
thấy sao?
Tôi vuốt mặt, bàn tay đầy
máu rồi phun ra một ngụm mảnh vụn lợn cợn
lẫn máu. Tôi bảo:
- Địch đang đánh trên
đường đi Bệnh Viện 2 Dă Chiến anh không
biết sao? Thôi được,
anh Phúc quay lại thả tôi vào nhà rồi nói Chuẩn Úy Đào
Sawuth làm theo lệnh tôi.
Tôi xuống xe th́ TSI Lâm Chinh chạy
đến định d́u tôi vào nhà, tôi bảo:
- Không được, lính tráng
nó thấy tôi bị thương sẽ rối loạn. Anh lên pḥng tôi, lên tiếng và vào pḥng
kéo ngăn hộc tủ dưới lấy bông bang và lọ
thuốc Erythromycine ra cho tôi rồi bảo riêng cho Trung Tá Luật
biết tôi bị thương nhưng vẫn c̣n ở ngoài
chỉ huy được.
Hai bên cứ giằng co
nhau. Khi trời gần sáng th́ địch
rút lui. Rạng sáng xe Quân Cảnh
và xe hộ tống đưa xếp lớn lên BTL, tôi bảo
tài xế Phú chở tôi ra pḥng mạch riêng của Bác Sĩ Đỉnh,
Chỉ Huy Trưởng Bệnh Viện 2 Dă Chiến ở đường
Lê Thánh Tôn.
Cửa sắt đóng kín mít. Gọi măi, xưng tên họ cô y tá
mới mở cửa cho chúng tôi vào.
Tôi bảo anh Phú:
-Anh ngồi trong nhà, hé cửa
sắt nh́n ra, nếu đặc công đến phá hoại
th́ bắn hạ.
Đang điều trị, tôi
nghe tiếng chân vô ra ngoài pḥng khám.
Xong xuôi, tôi la anh Phú:
-Bảo anh ngồi gác ngoài trước,
anh cứ chạy vô chạy ra làm ǵ? Nó phá hoại th́ sao? Phú trả lời:
-Thiếu Úy biết không. Việt Cộng nó vừa bắn
chết Thiếu Tá Quân Trấn Trưởng bên ngoài tiệm
Hương B́nh, Hương Thủy. Tôi cộc lốc:
-Kệ nó, ta đi về.
Về nhà, tôi lau sạch máu me
trên mặt, trên tay, thay quần áo rồi lên Bệnh Viện
2 Dă Chiến để chăm sóc vết thương, v́ ở
pḥng mạch riêng không đủ phương tiện. Vợ tôi cũng cùng đi.
Sau khi khâu vá môi dưới bị
đứt và gắp hết mảnh vỡ trên 6 cái răng
gẫy, vá lợi răng bị rách nát, ông ta lấy làm lạ
tại sao môi trên lại c̣n nguyên vẹn. Nhân tiện tôi nhờ ông ta khám
thai cho vợ tôi. Chờ đợi
không lâu, ông ta ra báo kết quả:
- Chúc mừng Thiếu Úy - Bà nhà
đă thụ thai.
Tôi sắp được làm
cha. Mừng quá, tôi ôm chầm lấy
vợ, quên cả đau. Bác Sĩ
Đỉnh nói:
- Nhờ hồng phúc con trẻ
mà mảnh đạn nó không đi thẳng vào cổ họng
Thiếu Úy. Nếu không, ông ta đưa
cả hai tay lên trời.
Tôi nghĩ, giá mà đạn nó
chạm vào thành chiến xa mà không đổi hướng, mảnh
bay thẳng vào miệng tôi th́ – mái tóc xanh óng mượt của
người vợ trẻ sớm phủ vành tang trắng –
Tóc nàng đẹp như những sợi tơ trời, là dây
tơ hồng trói chặt đôi chân lăng tử của tôi và
con tôi sẽ mồ côi cha khi mới tượng h́nh trong bụng
mẹ và rồi tôi sẽ đi về đâu?
Thủa thiếu thời, tôi là
một cậu bé rất hay suy tư và mơ mộng. Đêm đêm tôi thường ra bờ
sông Hậu nh́n trăng sao trên trời mà nghĩ suy tư cho
thân phận của con người.
Con người từ
đâu đến?
Đến để làm
ǵ?
Rồi sẽ đi
đâu?
Bây giờ nếu tôi phải
ra đi: Đi đâu đây? Âm ty địa ngục th́ tôi không
thích rồi v́ nơi đó lạnh lẽo, tối tăm. Nghe nói quỷ da xoa nó hay cắt lưỡi
người hay ăn nói ngang ngược như tôi. Hỏa ngục, th́ tôi cũng không
ham, lẽ dễ hiểu, tôi là lính Thiết Giáp, xuống đó
là chết cháy ngay. Lửa tam
muội c̣n nóng gấp ngàn lần lửa xăng. C̣n Thiên Đàng hay Bồng Lai Tiên Cảnh
chẳng những tôi không thích mà c̣n sợ nữa. Tôi nói thật chứ không dối
ḷng, v́ Thiên Đàng th́ toàn là những người đạo
đức thánh thiện – ăn không dám ăn no, ngủ không
dám ngủ nướng, nói năng đi đứng dịu
dàng, khoan thai từng kiển bước. Tôi lại thuộc mẫu người
có quan niệm “Nam vô tửu như kỳ vô phong” – mà trên Thiên
Quốc th́ rượu thuộc vào hàng quốc cấm. Như thế thà xuống âm ty địa
ngục c̣n có tự do hơn.
Tôi nghe thi sĩ Tản Đà nói:
- Ở địa ngục th́
tha hồ say sưa, say túy lúy, say quắc cả cần câu,
say quên cả trời đất.
Không phải một hai xị mà là cả ṿ, cả ché. Thậm chí c̣n được phép
mang theo cả bầu rượu khi đi tŕnh diện Diêm
Vương nữa;
“Sống ở
dương gian đánh chén nhè
Thác về âm phủ cắp
kè kè
Diêm Vương phán hỏi
rằng chi đó
-Be
(Tản Đà)
Đó, tôi nói có ngoa đâu.
- Thêm nữa, trên Thiên Đàng
hay Bồng Lai tiên giới th́ có muôn vàn tiên nữ. Đă là tiên, th́ ắt hẳn phải
đẹp tuyệt trần.
Tuyệt thế giai nhân như Cléopatre cũng thua
xa. Nhưng chiêm ngưỡng mấy
nàng th́ dễ bị sa xuống địa ngục lắm. Vậy th́ tốt nhất là đừng
lên Thiên Đàng.
Khi tôi chết, nếu được
phép chọn, tôi sẽ xuống ở dưới ḷng đất
ấm làm bạn với giun với dế như những
ngày c̣n thơ ấu tôi thường đi xới đất
bắt trùng câu cá, câu tôm; đổ nước vào hang bắt
dế. Dế cơm nướng
ăn, thơm ngon lắm, c̣n dế lửa, dế than th́ lấy
cỏ lau váy mũi nó, chọc cho nó đá nhau.
Đêm đến, tôi cho chúng vào
cái hộp giấy nhỏ, lót cỏ làm nệm. Gần giữa khuya nó gáy tẻ tè
te nghe như tiếng nhạc thính pḥng d́u dịu ru tôi trong
giấc ngủ thần tiên đầy mộng đẹp.
Rồi có những đêm trăng
thanh gió mát, tôi trồi lên mặt đất – tôi nghĩ là được
phép – v́ ban đêm thuộc về cơi âm.
Trong khoảng vắng đêm
trường, tiếng côn trùng nỉ non như tiếng nhă
nhạc đâu đây vọng lại làm tôi quên đi những
phiền muộn của cuộc sống dương trần.
Thỉnh thoảng, tôi ngồi
dưới gốc cây to bóng mát.
Xuyên qua cành cây kẽ lá, tôi len lén chiêm ngưỡng sắc
đẹp của chị Hằng.
Có khi v́ quá mải mê nh́n ngắm khiến nàng phát hiện
nên bối rối thẹn thùng kéo màn mây che lại.
Cuộc sống như vậy
là sướng chán rồi - Ừ nhỉ - tôi quên, tôi có c̣n sống
đâu. Phải nói là cuộc
chết như vậy là sướng chán rồi, c̣n lên Thiên
Đàng để làm ǵ?
Đang mơ mơ màng màng, vợ
tôi thúc:
- Về đi, suy nghĩ ǵ đó? Tôi cười:
- Giá mà đạn nó đi thẳng,
anh hết hôn em được nữa rồi.
Ở bệnh viện về,
tôi nghe nói bố mẹ vợ tôi hết sức lo sợ v́
tin đồn tôi bị trọng thương. Để trấn an mọi người,
tôi bảo anh Quân Cảnh lái chiếc xe Jeep hộ tống
chở tôi đi ra nhà. Anh TS Lâm
Chinh cận vệ của “chef” cũng nhẩy lên.
Xe vừa qua khỏi nhà lồng
chợ, ngang bến xe đ̣ thị xă th́ một tràng AK47 nổ
ḍn từ trên lầu của một tiệm giầy xuống
xe tôi (bên cạnh nhà này là nhà “bồ nhí” của quan đầu
tỉnh. Tức khắc anh Lâm
Chinh “đáp lễ” bằng một tràng đại liên 30 (cũng
v́ tràng đại liên này mà tôi bị mang vạ sau này. Năm sau, khi tôi là Chi Đoàn Trưởng
CĐ3/3 Thiết Kỵ, Chi Đoàn tôi được tăng
phái cho BTL Biệt Khu 24. Đại
Tá Nguyễn Bá Liên, Tư Lệnh ngỏ ư với ông Tỉnh
Trưởng để Chi Đoàn đi diễu binh khắp
thị xă cho dân chúng chào mừng v́ lần đầu tiên
Kontum được tăng phái một đơn vị Thiết
Giáp cấp Chi Đoàn.
Ông Tỉnh Trưởng nói: “Tưởng
Thiết Giáp nào chớ TG của ông Đông th́ không được
hoan nghênh ở đây.”
Sao ông lại không công b́nh với
tôi như vậy? VC nó bắn tôi trước, ông không la nó,
lại phiền hà tôi. Ông phải
hiểu rằng, trong chiến tranh, kể cả thời b́nh,
trong xă hội “Quyền tự vệ là quyền chánh đáng
của con người.”
Xế chiều, th́ cái mặt
tôi sưng lên, miệng vẩu to như mồm “Trư Bát Giới”
và bắt đầu sốt.
Người tôi như mơ mơ màng màng. Đói bụng nhưng không ăn
uống ǵ được. Mấy
anh Quân Cảnh phải chạy ra quán sinh tố ở đường
“hàng keo” xin ống hút mang về, nhưng miệng tôi không ngậm
được th́ có hơi đâu mà hút. Rốt cuộc vợ tôi phải đút
sữa từng muỗng như đút con nít mới đẻ.
Chiều lại, tin tức từ
Pḥng 2, An Ninh Quân Đội Biệt Khu và đặc biệt
là các làng Thượng thông báo qua các linh mục: Từ hướng Đông và Đông
Đông Nam địch đă tiến tới Paradise chỉ c̣n
chờ bóng đêm vượt sông Đakbla là vào thị xă.
Từ phía Bắc, một lực
lượng rất đông đảo - người dân tộc
họ mô tả: đông bằng ba, bốn cái làng có mặt ở
khu rừng Nam Ngô Trang từ đêm trước.
Phía Tây, địch tràn ngập
Kon Rơ Bàng qua Phương Quy và sẵn sàng tấn kích
Kontum. Mặt Nam không ghi nhận
hoạt động đặc biệt, nhưng mặt này
có lực lượng biên pḥng (Lôi Hổ) án ngữ nên tương
đối an toàn.
Trước t́nh h́nh đó, các
cha đề nghị với Trung Tá cho tôi cải trang làm thường
dân rồi đem vào dấu trong trường Kuenot (Tiểu
Chủng Viện người Thượng). Tôi không đồng ư v́ đă quen sống
chết với đồng đội. Ra đó thấy nó “lạnh lẽo”
quá, vả lại nếu nó gặp tôi với thương tích
như vậy, nó cũng không tha.
Khi màn đêm phủ xuống, địch
bắt đầu tấn kích đồng loạt với cường
độ rất mạnh.
- Bộ Tư Lệnh và các đơn
vị thám kích, Tiểu Đoàn 221 Pháo Binh, Tiểu Đoàn
2/42 Bộ Binh, dinh Tỉnh Trưởng, tư dinh Tư Lệnh,
trại B2 lực lượng đặc biệt, Tiểu
Khu và toàn thể các đơn vị đồn trú - đặc
biệt là hai cái “dinh” - chỉ trừ BCH/MACV (Mỹ) là được
ăn no ngủ yên.
Trước t́nh huống như
vậy các đơn vị đều phải tự lo cho
bản thân ḿnh v́ không ai tiếp viện ai được. Áp dụng chiến thuật đó
địch quân nghĩ là sẽ khống chế được
toàn bộ và thanh toán các đơn vị ta cùng một lúc với
một lực lượng áp đảo, nhưng đă đụng
phải tinh thần và ư chí cương quyết tử thủ
của bên ta nên không thành công.
Thay v́ họ tập trung một lực lượng lớn
tràn ngập từng đơn vị của ta – bên ta không điều
binh tiếp viện được v́ không có quân trừ bị
(hai chiến đoàn Dù đă trả về Saigon rồi).
Như đă dự đoán, cái
“tư dinh Tư Lệnh” này được VC chiếu cố
nhiều nhất. Định
quân huy động vào đây 1 đại đội để
tấn công và 2 đại đội trừ bị để
xa luân chiến v́ suốt ba đêm, cứ mỗi giờ là
có một cuộc tấn công dữ dội. Nhưng họ đă gặp phải
cuộc phản công mănh liệt của đơn vị pḥng
ngự. Cả 4 mặt đều
có thiết trí đại liên 30 hoặc 50 cộng thêm hỏa
lực hùng hậu của chi đội chiến xa M41.
Sau nhiều lần xung kích đều
bị đẩy lui, địch dùng đại bác 75ly không
giật đặt trên tháp chuông nhà thờ Vơ Lâm (Cha Văn)
nă xuống tu dinh để tiêu diệt lực lượng
ta mà chủ đích là thanh toán “ông Tư Lệnh”.
Rốt cuộc, không trúng ai cả,
v́ cái nóc nhà tôi ở hứng đạn hết (nhà cao cẳng
mà). Pḥng ngủ, giường
ngủ-giường tân hôn của vợ chồng tôi mấy
tháng trước, nệm bông bay tứ tung như băo tuyết.
Thừa lúc đó, địch
xung phong nhưng bao lần đều bị chiến xa đẩy
lui. Xếp tôi gọi Thiếu
Tá Bửu Hạp, Tiểu Đoàn Trưởng 221 Pháo Binh
triệt hạ khẩu đại bác. Pháo binh hạ càng trực xạ. Phát thứ nhất trượt, đạn
bay tuốt nổ ầm bên ṭa tỉnh. Cũng v́ cái viên đạn này mà xếp
tôi mang họa. Sau này ông Tỉnh
Trưởng kéo bè với Hội Đồng Tỉnh kiện
xếp về tội dùng chiến xa mưu sát ông Tỉnh Trưởng
và bắn nhà thường dân? Nên phải rời chức vụ
Tư Lệnh Biệt Khu.
Chuyện thật đáng tức
cười - cười ra nước mắt. Ông Tỉnh Trưởng và “thằng
mũi lơ” (tôi xin lỗi v́ dùng danh từ kém thanh nhă) - Đại
Tá cố vấn Mỹ đem đầu đạn Pháo Binh
105ly mà nói là đạn chiến xa M41 (76ly) để làm chứng
tích.
Ông Tự Lệnh QĐII là một
ông Tướng TG mà cũng chập thuận như vậy. Chắc ông ta lên Tướng lâu rồi
nên quên đại bác trên chiến xa M41 chăng? Hay ông tưởng là Mỹ đă
viện trợ chiến xa M60 cho QLVNCH rồi?
Đó là một trong những
nguyên nhân khiến miền Nam lọt vào tay Cộng Sản
sau này.
Thủa đó, miền Nam chúng
ta – trong quân đội, cũng như các tầng lớp dân
chúng – khi nói chuyện với nhau thường gọi mấy
anh Mỹ là “thằng mũi lơ” hay thằng Mỹ. Khác với miền Bắc, Cộng
Sản họ “lịch sự” hơn, có “văn hóa” hơn nên
gọi là “ông Liên Sô” hay “ông Trung Quốc”. Nếu gọi là đồng chí th́
phải thêm chữ “vĩ đại” đằng sau:
- Đồng chí Liên Sô hay Trung
Quốc vĩ đại.
Miển Nam gọi Trời là “Ông
Trời”, miền Bắc gọi Trời là “thằng trời”. Nhưng họ lại tôn phong “Hồ
Chí Minh là một lănh tụ thiên tài”. tức là một lănh tụ
tài ba, kiêt xuất của thằng trời “ban cho”.
Nói tóm lại:
- Miền Nam: “Ông Trời” – “thằng
Mỹ”.
- Miền Bắc: “thằng trời”
– “Ông Liên Sô/Ông Trung Quốc”.
Miền Nam, miền Bắc khác
nhau là như vậy đó.
Năy giờ, tôi miền man đi
lạc đề quá xa, giờ xin trở lại chuyện
Pháo Binh và cây đại bác 75ly không giật.
Pháo Binh của TĐ221 điều
chỉnh lại và phát đạn thứ hai bay ra – cây đại
bác VC im tiếng luôn – không biết cái tháp chuông nhà thờ Cha
Văn có bay đi luôn không? Tôi
không có cơ hội để kiểm soát lại.
Phải
nói rằng, lực lượng trú pḥng đă chiến đấu
hết sức kiên cường và dung cảm dưới sự
thống nhất chỉ huy của BTL/BK24 và sự phối
hợp hài ḥa chặt chẽ giữa các đơn vị mà
ṇng cốt là TĐ2/42 BB, TĐ 221 PB, BCH/B2/LLĐB, các đơn
vị Thám Kích TK/KTM, BCH/CS/KTM…
và
đặc biệt phải nói đến chi đội chiến
xa M41 do Chuẩn Úy Đào Sawuth chỉ huy. Anh ta là học tṛ cũ của tôi
khi c̣n là học sinh trung học.
Tuy mới ra trường không bao lâu, nhưng đă tỏ
ra là một Sĩ Quan Thiết Giáp gan dạ và có kinh nghiệm
chiến trường.
Ban ngày, chi đội phải
xẻ ra làm đôi đi thanh toán các mục tiêu trong thị
xă và ngoài ven biên. Ban đêm trở về pḥng thủ tư
dinh. Suốt mấy ngày đêm
liên tiếp không ngủ, ban đêm anh ta phải thỉnh thoảng
đánh thức binh sĩ dậy bằng một tràng đại
liên 12ly7.
Chiều mồng 3 Tết,
BCH/MACV Mỹ thấy VC không nuốt trôi quân đội VNCH
bèn cho một tiểu đội đi “tuần tiễu”
trong thị xă – súng gác trên vai, đi ngất nga ngất ngưởng
trông thật ứa gan. Chiến
tranh VN nó bẩn thỉu như vậy đó.
Suốt mấy ngày đêm bị
địch xa luân chiến như vậy mà cả chi đội
TG, Trung Đội pḥng vệ, kể cả toán Quân Cảnh,
an ninh cận vệ, chỉ có 3 anh bị thương nhẹ
- kể cả tôi. Đó là niềm
hănh diện và sung sướng nhất trong đời binh
nghiệp của tôi.
*******
***
Câu chuyện đầu năm
này chỉ là những mẫu chuyện nho nhỏ trong phạm
vi hạn hẹp của một bài tự thuật nhưng
phản ảnh rất trung thực về đời sống
tâm tư, t́nh cảm và sinh hoạt của tôi, của gia đ́nh
nhỏ bé của tôi và những bạn bè thân cận, các đơn
vị mà tôi phục vụ mà không nhằm mục đích nói
lên hết qui mô rộng lớn và khốc liệt của
chiến trường và diễn tiến những cuộc hành
quân giải tỏa thành phố Kontum trọng dịp Tết
Mậu Thân 1968, bao gồm việc BTL hành quân phải dùng đến
chiến xa và phi pháo để tiêu diệt lực lượng
địch tràn ngập trong nội vi thị xă- Mặt Bắc
và Tây Bắc càng ác liệt hơn, tàn bạo hơn - địch
đă dùng chiến thuật biển người, từng đợt
xung phong định tràn ngập TĐ 221 PB, BTL, BV2 Dă Chiến…
nên chiến xa và pháo binh phải dùng đạn chống biển
người bắn trực xạ.
Nói tóm lại, toàn thể quân dân
cán chính Kontum đă ghi lại trong lịch sử một cuộc
chiến đấu anh dũng, hào hùng để bảo vệ
đất đai và sinh mạng đồng bào.
Họ không hèn
nhát, không chịu chiến đấu “như lời của
TNS Joe Biden (Từng là Phó Tổng Thống thời Obama, và
vào thời điểm bài viết này đang là Tổng Thống
Mỹ) đă nhục mạ họ cùng với quân đội
VNCH.
Khách quan hơn ta hăy nghe chính lời
của một cựu chiến binh Hoa Kỳ trong quân chủng
không quân: Ông Harry F. Noyes III đă từng phục vụ tại
Việt Nam: “Điều đáng tiếc hơn nữa là nhiều
cựu chiến binh lúc trở về, lại đi gia nhập
vào hàng ngũ của những nhóm gây rối, trốn lính và
hoạt đầu chính trị” để bêu xấu danh dự
của một đội quân
nay không c̣n có thể tự đứng ra bào chữa được
ḿnh.
Nhục mạ một đạo
quân đă mạng vong trong chiến trận do nước Mỹ
bỏ rơi là một hành vi đê tiện. Không xứng đáng là người
chiến binh Hoa Kỳ.
(Trích Nguyệt San Diều Hâu
2/2014)
Sau này, các nhà văn, các nhà viết
sử, có kiến thức hơn, có tầm nh́n sâu rộng hơn,
sắc bén hơn và cũng khách quan hơn để phán xét
ai là người có công, ai là người có tội trong cuộc
chiến đấu đẩy lui Việt Cộng về rừng,
đem an b́nh về cho dân chúng.
=O -o- O=
=O=
Căn
cứ hỏa lựcVơ Định
(Việc ǵ làm được
hôm nay, đừng để đến ngày mai)
Tôi
đưa đoàn chiến mă rầm rộ vượt qua cầu
Dakbla tiến vào thị xă Kontum dưới ánh nắng vàng rực
rỡ. Tiếng ve sầu nức
nở ḥa với tiếng vó ngựa tạo thành một âm hưởng
diệu kỳ xoáy xuống tận chiều sâu tâm hồn của
những chàng kỵ binh hào hoa đă từng làm thổn thức
bao trái tim non của những cô nữ sinh trưởng thánh
Thérésa.
Dưới
ánh nắng hè, những tà áo trắng phất phơ của
buổi tan trường đă làm chậm bước đoàn
ngựa sắt.
“Dặm trường xa, không nản
chân ngựa chiến
Mỹ nhân kề, rũng chí
chinh nhân”
Những huyết
phương hồng trên đường Phan Thanh Giản như
ngẩn như ngơ, như e lệ rơi trên những mảnh
chiến y nhuộm đầy bụi đỏ đường
xa…
*****
***
*
Để
mừng ngày tái ngộ sau biến cố Tết Mậu Thân
hơn một năm dài xa cách và cũng để có cơ hội
gặp gỡ hàn huyên sau những tháng vắng ngày dài đối
với người con rể; ngay chiều hôm ấy, chúng tôi
- mười Sĩ Quan trong Chi Đoàn cộng với hai anh
cố vấn Mỹ, được cha mẹ vợ tôi đăi
tiệc “khao quân tẩy trần” thân mật trong gia đ́nh.
Quả
chúng tôi có lộc ăn – hôm đó gia đ́nh đặt người
Thượng bắt được 2 con cá sông Dakbla c̣n tươi
rói. Mấy anh cố vấn Mỹ
khen đáo khen để v́ mấy khi được ăn
cá tươi. Đối với
họ “ration C” là tiêu chuẩn.
Phải
nói ba vợ tôi là một người tinh tế, hiểu đời,
luôn luôn sát cánh và yểm trợ tôi trên mọi mặt. Khi mọi người ra về,
người nói với tôi:
“Hôm
trước, Đại Tá Nguyễn Bá Liên, Tư Lệnh Biệt
Khu 24 có ngỏ ư với Trung Tá Tỉnh Trưởng kiểm
Tiểu Khu Trương TK Kontum “Lần đầu tiên,
Kontum được tăng phái một đơn vị Thiết
Giáp cấp Chi Đoàn, đề nghị bên Tỉnh phối
hợp với Hội Đồng Tỉnh tổ chức
cho đi diễu hành qua các phố trong thị xă để
dân chúng chào mừng. Trung Tá TKT đáp:
Tưởng TG nào, chớ TG của ông Đông th́ không được
hoan nghênh ở đây”.
Quả thật,
ông Trung Tá thù dai quá, chuyện đă xẩy ra hơn một
năm rồi nhắc lại chỉ tổ phơi bầy
tính cố chấp và thiếu óc phán xét.
Vào đêm 30
Tết Mậu Thân, tôi bị thương. Gia đ́nh bên vợ lo lắng lắm. Để trấn an họ, sáng mồng
một Tết, sau khi băng bó xong, tôi lấy chiếc xe
Jeep “Quân Cảnh hộ tống” ra nhà cha mẹ vợ tôi.
Khi xe vừa
qua nhà lồng chợ, ngay bến xe đ̣ địch từ
trên lầu của một tiệm giầy bắn xuống
xe tôi một tràng AK47. Để
khỏi mang tiếng bất lịch sự, anh Trung Sĩ Lâm
Chinh (cận vệ) đáp lễ ngay tức khắc 1 tràng đại
liên 30ly.
Cái nhà đó,
rủi thay lại cạnh nhà của “bồ nhí” quan đầu
tỉnh. Có thể đạn
lạc qua đó chăng? – V́ xe tôi đang chạy chớ đâu
phải đậu lại bắn, mà bảo cố ư.
*****
***
*
Thôi bỏ
qua chuyện lẩm cẩm đó đi. Bây giờ bước vào mục
tiêu chính của câu chuyện này.
Sáng thứ
hai, Bộ Tư Lệnh Biệt Khu 24 tổ chức một
phiên họp hành quân nhằm mục đích tổ chức và
phối trí lực lượng trên QL14 từ Vơ Định
tới Dakto, Tân Cảnh để yểm trợ cho SĐ4
bộ binh Hoa Kỳ mở các cuộc hành quân lớn vùng Bắc
và Đông Bắc Dakto, qua Banhet (vùng 3 biên giới phía Tây.)
Chi Đoàn tôi
trách nhiệm chỉ huy căn cứ hỏa lực Vơ Định
thay thế cho một tiểu đoàn bộ binh cơ giới
Mỹ. Tôi không nhớ rơ danh số.
Căn cứ
hỏa lực Vơ Định đóng một vai tṛ quan trọng
v́ là một đơn vị tiền phương có khả
năng cơ động mạnh, an ninh QL14 trong phạm vi
trách nhiệm và là thành phần xung kích, khi cần. Lực lượng
của tôi chỉ huy gồm có:
-
Chi Đoàn 3/3 Thiết Ky (M113)
-
Chi đội Chiến Xa M41 (ban ngày do tôi chỉ huy, ban đêm
xuất phái, tăng phái cho Trung Đoàn 42 bộ binh).
-
Một Đại Đội bộ binh (hoặc BĐQ) tùng
thiết Chi Đoàn.
-
Một Đại Đội Địa Phương Quân
(giữ cầu và các yếu điểm quanh vùng Vơ Định.
-
Trung Đội 105ly Pháo Binh VN, yểm trợ trực tiếp.
Sau này, thay thế bằng 1 Pháo Đội (-) cơ động
155ly (Mỹ) cộng một phân đội Deuxter, trang bị
đại bác 40ly song hành, bắn liên thanh.
-
Một tiểu đội CB/VN ḍ ḿn và một tiểu đội
CB/Mỹ.
-
Chi đội súng cối 4.2 của Thiết Đoàn tăng
phái.
-
Ban đêm Chi Đoàn tôi xuất phái 1 chi đội, tăng
phái cho Liên đội ĐPQ ở Konhơring (khi xuất trại
ban đêm phải có 1 Trung Đội ĐPQ tùng thiết.
Trong
đời binh nghiệp của tôi, có lẽ đây là thời
kỳ vàng son nhất, v́ với cấp bậc Thiếu Úy mà
chỉ huy một lực lượng hỗn hợp tương
đương với cấp Tiểu Đoàn.
***
Bước
sang phần thảo luận, Trung Tá TKT/Kontum nói:
-
Thiết giáp thường hay tác bừa băi, chết thường
dân vô tôi.
-
Trường hợp chạm địch trong làng, muốn tác
xạ phải xin lệnh của đích thân Tiểu Khu Trưởng.
Tôi
th́ không xa lạ ǵ với Trung Tá Tiểu Khu Trưởng,
nhưng không muốn tranh căi với ông ta, nên trả lời
vắn tắt:
-
Tôi
e rằng như vậy là mất thời gian tính.
Miệng
tôi nói như vậy, nhưng trong đầu tôi lại nghĩ
đến chuyện tếu: “Nếu các quan to” đang “hỉ
nộ ái ố” với lệnh phu nhân th́ quyết định
đến với chúng tôi không đến nỗi chậm.
Rủi
ro quan to đang ở trên ḿnh một con bạch mă, lại là
ngựa tơ - “bạch mă tẩu như phi”, rầm rập,
rầm rập từng chập, từng cơn hí lên vang lừng,
rên rỉ rung động cả chiến trường… cho dù
trời có sập cũng không màng, th́ làm sao nghe tiếng kêu
cứu được. Chờ
xong cuộc, mấy con cua sắt của tôi ram muối hết: Lính tôi chết oan, biết
đ̣i mạng ai đây. Thầm nghĩ như vậy, tôi
khẽ mỉm cười.
Có
lẽ sợ tôi tối da không hiểu hoặc phiền hà, ông
ta nói lỏng:
-
Trừ phi các anh đụng trận lớn.
Tôi
bắt đầu nổi cơn, bèn đứng dậy:
-
Thưa Đại Tá Tư Lệnh, thưa Trung Tá Tiểu
Khu Trưởng: Lệnh của
Trung Tá trừu tượng quá, e cấp dưới của
chúng tôi khó mà thi hành. Tôi xin đưa
ra một thí dụ cụ thể:
-
Chi Đoàn tôi thường có một chi đội đi hoạt
động lẻ. Trường
hợp đang di chuyển qua làng bị 1 tiểu đội
VC - tôi nói chỉ một tiểu đội thôi - phục kích,
bắn cháy 1 hoặc 2 xe, ông chi đội trưởng được
phép bắn trả không hay phải “chạy xa” chờ xin lệnh
của đích thân Trung Tá?
-
Đụng 1 tiểu đội th́ không thể gọi là trận
lớn được. Đại
Tá Liên biết tôi sinh sự, bèn bảo:
-
Thôi Đông, chú mầy liệu mà xử trí chớ.
Sau
cùng ông Trung Tá Thiết Đoàn Trưởng của tôi nói:
-
Tŕnh Đại Tá Tư Lệnh “Anh Đông cấp bậc
Thiếu Úy mà các Đại Đội Trưởng tăng
phái thường là Trung Uư hoặc Đại Úy e bất tiện. Xin Đại Tá trao gắn cấp
bậc Trung Úy chỉ huy cho anh ta.
Đại Tá Liên bảo:
-
Sao các anh không điều chỉnh cho anh ấy. Thôi được tôi cho phép chú mày
mang lon Trung Úy mà làm việc.
Căn cứ hỏa lực Vơ
Định
Nằm trên một
thửa đất rộng mênh mông, tương đối
cao ngự trị cả một vùng, có quan sát, xạ trường
rất tốt và rất thuận lợi cho việc điều
động Thiết Giáp. Tọa
điểm khoảng 25 Km Bắc Kontum và 25 Km Nam Dakto – Tân Cảnh.
Phía
Nam Đông Nam là làng Vơ Định. Cư dân đa số là dân
tộc thiểu số. Phía
Nam, ngay trên QL14 là cầu Vơ Định, bắc ngang qua giao điểm
của hai ḍng suối. Cầu
này được pḥng thủ bới 1 Đại Đội
ĐPQ(-). Số c̣n lại bố
trí trong làng Vơ Định và các yếu điểm xung quanh vùng.
Ông
Trung Tá Mỹ, cố vấn trưởng của Thiết Đoàn
3 Kỵ Binh hướng dẫn tôi và anh Đại Úy cố
vấn Chi Đoàn tới nhận bàn giao trước sự
hiện diện của đại diện Pḥng 3 BTL Biệt
Khu 24.
Chỉ
huy trưởng Tiểu Đoàn BB cơ giới Mỹ này
mang cấp bậc Trung Tá.
Sau
khi thuyết tŕnh về t́nh h́nh địch, bạn trong vùng,
nhiệm vụ và phối trí lực lượng của Tiểu
Đoàn cùng các phương thức, kế hoạch hành quân,
ông ta báo cáo kết quả trong ṿng 3 tháng sau cùng:
-
3 lần chạm địch nhẹ ở hai bên ven rừng,
7 lần địch bắn sẻ vào đoàn “convoy” và trong
ṿng hai tháng gần đây Tiểu Đoàn ông ta thiết mất
32 chiếc, vừa chiến xa M48 vừa M113 (đa số)
v́ trúng ḿn. Lư do là họ triệt
để dùng cơ giới để tránh thiệt hại
về nhân mạng. Thường th́ họ dùng chiến xa
M48 rà ḿn. Chiến xa này có thiết
trí một hệ thống bánh lăn phía trước đầu
xe.
Xe
cứ chạy trên đường, dẫm ḿn nổ th́ thay
các bánh lăn. Làm như vậy,
họ mở đường được nhanh hơn.
Nghe
thế tôi hơi cúi mặt, mỉm cười. Ông ta tinh ư hỏi:
-
Trung Úy cười ǵ?
Tôi
nói:
-
Xin lỗi Trung Tá, tôi đang nghĩ về chúng tôi: “Nếu
cái đà như vậy, khoảng 2, 3 tháng sau, Chi Đoàn tôi
sẽ được tái tổ chức, tái bổ sung và huấn
luyện và cuối tuần tôi sẽ có mặt ở Saigon để
đi bát phố nh́n mấy cô gái Saigon xinh đẹp…”.
Sau
khi cho Chi Đoàn thay thế các vị trí của Tiểu Đoàn
Mỹ, tôi lấy xe chỉ huy đi thám sát hết khu vực
trách nhiệm.
H́nh
ảnh đập vào mắt và trí óc tôi đầu tiên là những
hố ḿn loang lổ khắp đó đây trên đường
nhựa. Đó là lư do chính yếu
tại sao Thiết Giáp Mỹ bị ḿn nhiều. V́ muốn bảo toàn sinh mạng
cho Công Binh ḍ ḿn nên khi khám phá được, ho cho nổ tại
chỗ. Hố ḿn khoảng vài
mét đường kính, chỉ ban sơ đất lại
nên địch quân dễ dàng tiếp tục chôn, xóa vết
tích, rải nước lên; sáng lại Công Binh khó mà khám phá bằng
mắt.
Ở
đây, địch dùng lẫn lộn ḿn chống chiến
xa vỏ kim loại (nhập cảng) và ḿn ứng chế -
đặt chất nổ trong cái hộp gỗ, dùng ng̣i nổ
thật nhỏ khó mà khám phá bằng máy ḍ ḿn. Nó rất nhậy, xe gắn máy
chay qua cũng nổ.
Chiều
lại, sau khi rút quân về căn cứ, tôi gọi tiểu
đội công binh lên dặn ḍ phải chú trọng việc
quan sát bằng mắt để khám phá dấu vết khả
nghi, phối hợp với máy ḍ ḿn.
-
Khi xác định được ḿn, cẩn thận xới
đất t́m cho được khoen hay bất kỳ chỗ
nào có thể cột dây được, sau đó xử dụng
dây điện thoại dài khoảng 70, 80 mét buộc vào M113
mà kéo. Như thế vừa an toàn cho sinh mạng họ, vừa giới hạn
ḿn nổ phá đường.
Tôi
tiếp tục nghiên cứu bản đồ hành quân, phối
kiểm tin tức của Pḥng 2 BTL/BK24, quan sát địa h́nh
địa vật và báo cáo của vị chỉ huy tiền
nhiệm. Qua đó tôi ghi nhận
được địch thường đánh ḿn và phục
kích thường xuyên trong khu vực Bắc căn cứ độ
5Km đến ngă ba làng Konko. Về
phía Đông của làng này độ 15Km là khu vực hoạt
động của địch và là giao điểm của
nhiều đường giao liên của địch đi về
phía Đông Bắc Kontum. Từ
đó có rất nhiều đường tiến sát ra Quốc
lộ.
Tôi
mời Thiếu Úy Trung Đội Trưởng Pháo Binh
(VNCH) cho ông ta mấy (tọa độ) điểm tác xa
khuấy rối về đêm và dặn kỹ:
-
Xử dụng đạn nổ chụp (điều chỉnh
thời nổ).
-
Thay đổi giờ bắn và xê dịch mục tiêu luôn luôn.
Về
phía Chi Đoàn, buổi chiều sau khi rút quân tôi cho một
phân đội trở lại phục kích, có lần bắn
được mất chú VC.
Tôi
quên kể, hàng ngày tôi có một chi đội Chiến Xa M41
mở đường từ Dakto/Tân Cảnh xuống làng
Konhơring. Chi đội Thiết
kỵ của tôi ở đêm tại Konhơring lục soát
xuống tới Konko. Chi Đoàn
(-) mở lên hướng Bắc đến khi bắt tay với
chi đội tại Konko.
Chi
đội súng cối 4.2 an nính Pháo Binh tại cắn cứ. Cả Chi Đoàn xử dụng hỏa
lực mạnh của Thiết Giáp và Pháo Binh lục soát 2 bên
đường khoảng gần 200 mét, sau đó thả bộ
binh xuống giữ đất.
Phải nói, chúng tôi phối hợp với Pháo Binh hết
sức hài ḥa và nhịp nhàng.
Tiếng pháo vừa dứt.
Thiết Giáp ập vào ngay.
Gần
một tháng trời qua, Chi Đoàn tôi b́nh an vô sự. Hằng ngày toán Công Binh VN đi
ngay sau Thiết Giáp ḍ ḿn từ Vơ Định lên và toán Công
Binh Mỹ từ Dakto xuống.
Thường th́ họ gặp nhau ở Konko.
Ḍ
ḿn xong, tôi bảo anh Đại Úy cố vấn cho phép đoàn
convoy di chuyển.
Một
hôm, Chi Đoàn tôi lục soát, an ninh khu vực xong, kịp lúc
hai toán Công Binh Việt Mỹ gặp nhau tại ngă ba làng
Konko. Tôi bước xuống
xe, đi dọc theo lề đường quan sát. Khi đi qua một băi đất đỏ,
tôi thấy một dấu chân trâu in rơ trên đất c̣n ươn
ướt. Bước tới
vài bước nữa, chợt nghĩ ra điều ǵ, tôi
quay lại quan sát khu vực xung quanh vết chân trâu. Tôi gọi cả 2 toán Công Binh Việt/Mỹ
tới chỉ họ. Đây là
quả ḿn!
Anh
trưởng toán CB Mỹ bảo:
Chỗ đó chúng tôi ḍ rồi, không có ǵ cả, hắn
ta nói tiếp:
-Trung
Úy có thấy dấu chân trâu không?
Tôi
trả lời:
-V́
tôi thấy, nên bảo với các anh, chỗ đó có chôn ḿn. Anh hăy xem lại xung quanh đây c̣n
vết chân nào khác không?
Rốt
cuộc, đào lên quả ḿn ứng chế.
(1)
- Cuộc tiếp viện ở cầu Diên B́nh
Diên
B́nh là một xă nằm về phía Nam Dakto khoảng 5 Km và phía
Bắc Konko cũng chừng khoảng đó. Cầu bắc ngang sông dài khoảng
60, 70 mét. Mặt cầu khá rộng. Nó được pḥng thủ và an
ninh bởi 1 Đại Đội ĐPQ do một ông Trung Úy
làm Đại Đội Trưởng. Đại Đội này nằm
trong khu vực trách nhiệm và dưới quyền chỉ
huy của Liên Đội Trưởng ĐPQ ở Konhơrong.
Một
buổi tối, sau khi cơm nước xong, tôi vào xe M113 chỉ
huy nằm nghỉ. Giường
ngủ của tôi là chiếc vơng giăng từ đầu
xe (sau lưng tài xế) tới cuối xe. Ban đêm, nếu có biến động
tôi với tay mở núm điện chỉnh và máy truyền
tin, móc chiếc vơng sát vào thành xe, là sẵn sàng làm việc. Hồi làm chi đội trưởng
như vậy, bây giờ th́ cũng như vậy thôi.
Khoảng
8 giờ tối, anh Thượng Sĩ Đức, trưởng
ban truyền tin tới báo cho tôi biết, cầu Diên B́nh không
lên máy đầu giờ. Một
lần lúc 7 giờ tối và lần này lúc 8 giờ. Liên Đội
Trưởng báo cáo Tiểu Khu Kontum. Đến 9 giờ tối nó cũng
bặt vô âm tín. Ông Đại Úy
Liên Đội Trưởng ở Konhơring c̣n ráng ẩn
nhẫn chờ. Cả Tiểu
Khu cũng vậy - đồng ư chờ đến 10 giờ
nếu nó không lên máy, sẽ điều quân tiếp viện.
Tôi
gọi cho chi đội Thiết Kỵ tăng phái ở
Konnhơring nhắc nhở: nếu họ cho lệnh đi
tiếp viện, phải dứt khoát đ̣i cho được
1 trung đội tùng thiết - điều đó có tính cách
bắt buộc và có ghi rơ ràng trong lệnh hành quân.
Đến
10 giờ tối Đại Đội Diên B́nh cũng tịt
luôn. Liên Đội Trưởng
Konhơring cho lệnh Thiết Giáp xuất trại đi tiếp
viện, không có tùng thiết. Tôi
bảo từ chối. Anh chàng
Liên Đội Trưởng này thuộc loại cáo già, đầu
có sạn. Anh ta nghĩ Việt
Cộng có dùng chiến thuật “dương đông kích tây”
và “điệu hổ ly sơn” - Lực lượng phụ
đánh Diên B́nh, chờ Thiết Giáp xuất trại để
dùng lực lượng chính tràn ngập Konhơring.
Hai
bên giằng co hơn nửa tiếng đồng hồ. Tôi vào máy can thiệp trực tiếp. Anh ta bảo v́ phải rút quân mỗi
vị trí một ít nên lâu.
Gần
11 giờ đêm, chi đội mới xuất trại đi
tiếp viện. Tôi ra lệnh
cho chi đội trưởng khi tới gần làng Diên B́nh
th́ không đi trên đường v́ cả hai bên đều
là nhà dân, cứ bọc sau lưng băng ruộng mà đi.
Khi
đến chân cầu Diên B́nh, chi đội bố trí lại
xem t́nh h́nh. Ông chi đội trưởng
(Thiếu Úy Đinh Văn Điển) báo cáo:
-
Bên kia cầu họ chớp đèn pin gọi Thiết Giáp
qua. Tôi ra lệnh:
-
Không qua, bảo họ qua cầu và nhận diện xem có phải
bạn không?
Tức
th́, Việt Cộng nổ ḿn phá cầu và hai bên đánh
nhau. Khoảng nửa tiếng
đồng hồ, chi đội làm chủ t́nh h́nh, địch
hầu như im tiếng. Chi đội
tiến lên, qua cầu v́ cầu chỉ bị hư hỏng
khoảng 1/3 mặt đường. Chừng đó, lính ĐPQ mới
lóp ngóp ra tŕnh diện. Rốt
cuộc Thiết Giáp đă tái chiếm được đồn
và tịch thu lại 36 khẩu súng đủ loại.
Sáng
hôm sau, khi mở đường xong. Thiếu Tá Thiết Đoàn Phó ThĐ
3KB (tức là xếp của tôi) bay lên Konhơring gặp tôi. Vừa đáp xuống trực thăng,
ông ta bảo tôi:
-
Anh làm lệnh phạt Thiếu Úy Điển 8 ngày trọng
cấm, xin gia tăng tối đa, đưa lên tôi. Tôi hỏi lại:
-
Thiếu Tá nói ǵ? Tôi không hiểu. Ông ta lặp lại như trên. Tôi hỏi:
-
Tại sao lại phạt anh ta?
Ông ta đáp:
-
V́ ông Trung Tá Tiểu Khu Trưởng bảo đồn bị
mất tại v́ Thiết Giáp tiếp viện trễ. Tôi cười:
-
Tôi xin lỗi Thiếu Tá. Thiếu
Tá không biết ǵ về Trung Tá TKT/TK Kontum và cũng không biết
ǵ về diễn tiến cuộc hành quân tối hôm qua.
-
Ông ta (Trung Tá TKT) có khả năng hà hơi vào đạn pháo
binh 105ly làm nó biến thành đại bác 76ly của Chiến
Xa M41 để thưa kiện Thiết Giáp mưu sát ông.
-
Đồn của ông ta bị mất trước 7 giờ
tối chớ không phải sau 11 giờ đêm, v́ tiếp
viện trễ. Nếu có chậm
trễ th́ do lỗi Liên Đội Trưởng ĐPQ không
cho Bộ Binh tùng thiết và tôi là người đích thân
theo dơi và chỉ huy trận đó; mọi mệnh lệnh là
ở tôi. Nếu Thiếu Tá muốn
phạt th́ cứ phạt tôi; c̣n phần tôi, tôi sẽ đề
nghị ân thưởng huy chương cho họ.
Ông
ta cũng chưa chịu thôi:
-
Nhưng mà tôi nghe chi đội không chạy thẳng qua làng
mà đi bọc đường ruộng nên chậm.
Bực
quá, tôi nói:
-
Người đi tiếp viện, nếu chết rồi
làm sao cứu được ai?
Thiếu Tá không có dự buổi họp hành quân ở
BTL/BK24 nên không nghe lời ông Trung Tá TKT nói là: “Khi chạm địch
trong làng, phải chờ lệnh đích thân TKT.”
Tôi
hỏi Thiếu Tá:
-
Nếu chi đội đi vào làng dân, bị địch phục
kích bắn cháy xe th́ phải bỏ chạy, báo cáo, chờ lệnh.
“Chờ bao lâu đây?”.
Chưa
hết đâu – không bắt nạt được tôi ngoài
chiến trường, bay về Pleiku, ông ta báo cáo cho Trung Tá
Thiết Đoàn Trưởng, là chỉnh được tôi
hay ít ra cũng phạt Thiếu Úy Điển. Không ngờ Trung Tá Thiết Đoàn
Trưởng bảo: “Anh đó ngang tàng và cứng cổ,
ngay cả tôi mà hắn ta c̣n căi.
Mấy anh muốn nói ǵ phải cho đúng. Đừng nói bậy anh ta không nể
nang đâu.
Bây
giờ anh Điển chết rồi, chắc anh cũng mỉm
cười măn nguyện v́ tôi dám nói lên sự thật về
chiến tích của anh và toàn thể chi đội 2 của
2/3 Thiết Kỵ do anh chỉ huy.
Về
sau này tôi có dịp về Kontum, bên nhà vợ tôi kể lại: đêm đó Trung Úy Đại Đội
Trưởng ĐPQ Diên B́nh về Kontum ở với vợ.
(2)
- Chuẩn Úy Châu (em của anh Thạnh)
Một
hôm, tôi nhận được thơ của anh Thạnh, bạn
cùng khóa SQ/CB Thiết Giáp – Anh ta nói:
-Tao
có thằng em trai út, ba má tao cưng nó lắm. Nó mới 17 tuổi
đầu, bỏ học trốn cha mẹ, khai man tuổi
để đăng lính. Khi
ba má tao biết được đi can thiệp đ̣i nó về
th́ quá trễ.
Bây
giờ nó ra Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh ở Pleiku, và đang
ở với mầy. Ba má tao
khóc hết nước mắt v́ nó.
Trong các bạn cùng khóa chỉ có mày làm Chi Đoàn Trưởng,
vậy mầy ráng giúp để nó khỏi đi hành quân, ba
má tao biết ơn mày lắm. Tôi hết sức cảm thông
nỗi lo sợ của những bậc cha mẹ có con đi
lính phục vụ tại chiến trường Tây Nguyên. Nhưng tôi rơi vào t́nh trạng
khó xử v́ chức vụ tôi chưa đủ lớn. Cấp số Chi Đoàn không có ban
tham mưu, nên không thể để Sĩ Quan ở lại
hậu cứ được.
Cuối cùng tôi mới nghĩ ra một cách: Vài tháng trước đây, chi đội
yểm trợ khiếm khuyết Sĩ Quan chi đội phó,
nên tôi đề cử một HSQ đảm trách. Bây giờ tôi rút anh ta ra, đề
bạt ông HSQ trở lại cũng tốt. Tối lại, ngồi chung với
các SQ, tôi mở lời:
-
Hiện Chi Đoàn đang quá bận rộn, nên tôi cần 1
SQ phụ tôi việc bản đồ… Nếu không trở
ngại Thiếu Úy Khôn cho Chuẩn Úy Châu về giúp tôi được
không? Dĩ nhiên là Thiếu Úy
Khôn bằng ḷng. Thật ra cấp
số của Chi Đoàn không có SQ hành quân và tôi cũng không cần
ǵ anh ta giúp đỡ. Tôi thuộc
loại người thích đơn thương độc
mă hơn.
Mỗi
lần bay C & C bao vùng, thường th́ người ta đem
theo 1 SQ Tiền Sát Viên Pháo Binh và 1 anh Hiệu Thính Viên Truyền
Tin. Tôi th́ một tay cầm bản
đồ, 1 tay xách cái máy PRC25 lên trực thăng. Tôi dùng chân đạp nó vào sau thành
ghế anh phi công là sẵn sàng làm việc. Mặc cho nó nhào lộn, v́ có khi phải
né đạn.
Tôi
gửi thư phúc đáp cho anh Thanh: Chắc mày cũng hiểu,
tao không thể để Châu ở hậu cứ được,
chỉ có cách cho nó đi chung xe với tao. Nếu cua bị ram muối, tao với
nó cùng đi, chắc mày cũng không nỡ trách tao.
Tôi
đem chú em về xe tôi độ mươi ngày ǵ đó. Anh ta tỏ ra rất xông xáo, thích
hoạt động và đi tác chiến hơn là làm lính văn
pḥng.
Thế
rồi, Thiếu Úy Khôn đi phép thường niên, tôi phải
đưa anh ta về xử lư thường vụ chi đội
trưởng. Hai hôm đầu
cũng không xẩy ra việc ǵ.
Sang ngày thứ ba, chi đội anh đi cánh mặt, lục
soát sâu vào rừng. Tôi đi giữa
gần đường với chi đội trừ bị. Tôi chợt nghe hai tiếng “Phùng Ph́nh”
rồi một cụm khói đen bốc lên trong cánh rừng
phía Đông Bắc, cách tôi khoảng 150 mét, cùng lúc anh ta gọi:
-
“Khủng long”, chạm địch rồi. Tôi đáp:
-
Tôi biết rồi - Huỳnh Long bắn liên tục cầm
chân địch bảo vệ số 1 các anh, tôi vào ngay.
-
“Bạch Long” (chi đội 1) hàng ngang bên mặt.
-
16 (trang bị đại bác 106 ly không giật) theo tôi.
-
“Thanh Long” (chi đội 3) hàng ngang phía Tây và yểm trợ
sau lưng tôi.
Vào
đến nơi, hai bên đang bắn nhau. Tôi xây qua anh cố vấn (Đại
Úy Campbell), định bảo anh ta liên lạc không quân, th́
“huỳnh” một tiếng – xe tôi như bi búa tạ đập
mạnh vào đầu, giật lùi lại. Cùng lúc, anh tài xế HS Ngân, trườn
ḿnh bằng mông níu lấy chân tôi (đang ngồi trên cửa
vuông). Tôi nh́n xuống, thấy chân trái anh ta đứt ĺa nhưng
giầy và bàn chân c̣n dính vào ống quần. Tôi bảo:
-Anh
buông tôi ra và ngồi dựa vào thành xe, cột rịt chân lại. Cùng lúc, tôi thấy trong bụi cây
xao động và cái bắp chuối (đạn B41) tḥ
ra. Tôi bảo anh xạ thủ
đại liên 30 cho vào đó 1 thùng.
Nó im luôn. Tôi bảo anh Tiền
Sát Viên PB:
-Anh
cho Trung Đội 5 tràng – A4 về phải 200 - bắn khi sẵn
sàng. Xong tôi bảo anh cố vấn
Mỹ xin 2 phi tuần oanh kích, tác xạ từ Tây sang Đông
dọc theo ṿng cung con suối (mũi gh́m vào mục tiêu phục
kích) khoảng 300 mét về phía Đông – bên kia là ngọn đồi
mà tôi nghĩ đó là nơi đóng quân của thành phần
chủ lực.
-Lúc
ấy chi đội 2 đang mở đường xuống.
Tôi bảo:
-“Hắc
Long”, anh tiếp tục xuống, khi nào thấy chúng tôi anh
chuyển qua hướng Đông sẽ bắt đầu tác
xạ.
Hơn
nửa tiếng sau, tôi không thấy địch phản công
bèn ngưng tác xạ Pháo Binh, để phản lực Mỹ
làm việc bên kia đồi.
Xếp
tôi (Trung Tá Dung), vào tần số nội bộ bảo sẽ
bay lên vùng. Tôi bảo ông ta:
-Chỗ
này chưa “sạch sẽ” đâu – “Phi Hải” danh hiệu
của ông ta, chờ.
Không
nghe lời tôi, ông ta cứ đến. Từ dưới đất địch
bắn lên trúng cánh quạt sau đuôi trực thăng (tôi không
nghĩ đó là súng pḥng không).
Chiếc trực thăng lảo đảo như người
say rượu. Nó đáp xuống
đường. Gặp ông ta,
tôi buộc miệng cười. Ông ta bảo:
-VC
bắn tôi, sao anh lại cười.
-Tôi
có cười Trung Tá đâu, tôi chỉ cười chiếc
trực thăng quay ṃng ṃng. Phải
nói là anh phi công quá giỏi.
Cũng
không hư hỏng nặng, nó chỉ gọi về căn cứ
Holloway ở Pleiku, đem phụ tùng lên thay thế là bay lại
được.
Trong
trận này, anh Đại Úy Campbell đề nghị Mỹ
ân thưởng cho tôi “Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Đồng
với chữ V (victory). Đó
là huy chương giá trị của Mỹ. Về phía VN, xếp tôi đề
nghị cho tôi Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Vàng (dĩ nhiên với
cả đồng đội tôi).
Vụ
trao gắn huy chương làm cho tôi thêm bực ḿnh. H́nh như cái số của tôi chỉ
hạp với chiến trường, với mấy anh lính
chiến chứ không hạp với các quan ở Bộ Tham
Mưu.
Buổi
lễ trao gắn huy chương được tổ chức
tại sân cờ BTL/BK24 Kontum.
Tôi đi trực thăng về đó tham dự.
Mở
đầu là phía Mỹ, do Trung Tướng Peers (Tư Lệnh
Lực Lượng 1 Dă Chiến) chủ tọa – Nguyên trước
kia là Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Bộ
Binh Hoa Kỳ.
Khi
tôi ra sắp hàng chờ, th́ ông Thiếu Tá Dỉnh, Trưởng
Pḥng 1 kiêm Tổng Quản Trị của BK24 ra bảo tôi:
-Anh
có cái ngôi Sao Vàng của VN, sao c̣n ra đây!!! nhận huy chương
Mỹ - Thiệt là hết sức lố bịch!
-Thưa
Thiếu Ta, tôi đâu có tự động ra đứng đây
được, tôi bảo ông ta.
Thiếu Tá Dỉnh tiếp:
-Nếu
anh nhận huy chương Mỹ, th́ tôi bỏ ngôi sao vàng VN
của anh. Bực quá, tôi bảo:
-Cái
đó tùy Thiếu Tá, muốn bỏ th́ bỏ. Tôi tiếp:
-Huy
chương là để ân thưởng cho người có
chiến công chứ không phải để xin xỏ và chia
chác nhau.
Tôi
nói với xếp tôi. Xếp tôi bực quá! Sao lạ vậy?
Nhưng
cũng không kịp, v́ buổi lễ bắt đầu.
Hai
năm trước, hồi c̣n làm Chánh Văn Pḥng Biệt
Khu, tuy là cấp bậc tôi rất nhỏ, nhưng ông ta có vẻ
hậu hỉ và niềm nở với tôi hơn bây giờ.
C̣n
về cậu em của Thạnh, v́ bị phỏng nặng,
họ chuyển cho qua thặng số cấp 2. Sau đó được chuyển
về miền Nam gần gia đ́nh nhưng đă mất mát
nhiều quá cho chiến cuộc này.
Âu quả là số trời, làm sao tránh được.
“Bác Năm Đành”
Viết
thiên hồi kư này về các chiến binh của Chi Đoàn
3/3 Thiết Kỵ của Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh mà không
nói về bác Năm Đành th́ quả là một thiếu sót
không thể tha thứ được.
Sau
hơn ba tháng hành quân xa, Chi Đoàn được về hậu
cứ Pleiku nghỉ dưỡng quân một tuần.
Sau
khi cho Chi Đoàn kiểm điểm quân số, xăng nhớt,
đạn dược… tôi được thoải mái nghỉ
ngơi. Vừa thiêm thiếp, chợt nghe có tiếng gơ cửa
liên hồi; có tiếng bác Năm Đành (Thượng Sĩ
chi đội phó chi đội 2).
-“Khủng
Long” mở cửa, Năm Đành muốn tŕnh bầy với
“Khủng Long” một việc quan trọng. Có tiếng của Thượng Sĩ
Hiền, Thường vụ.
-
Bác Năm ơi! Bác say rồi, về ngủ đi, để
Trung Úy nghỉ ngơi.
-Mầy
đi về đi, sao mầy dám nói tao say. Tao chỉ xin gặp “Khủng
Long” thôi. Gọi tôi không được,
ông ta tiếp:
-Cô
ơi! Tôi biết “Khủng Long” c̣n thức mà không chịu
ra, cô phải nói với “Khủng Long”: “Đừng có liều
ḿnh như vậy” lỡ “Khủng Long” có “tử mị” th́
lấy ai chỉ huy chúng tôi.
-Anh
em chúng tôi thương mến “Khủng Long” lắm.
Lời
khuyên của ông ta rất chính đáng, đúng theo chiến
thuật điều quân. Nhưng
cái phản ứng cấp thời của tôi hôm trước
khiến địch quân không rút lui kịp, tên nào ở hố
nào đều nằm yên hố đó.
Hơn
ai hết, tôi hiểu bác Năm Đành rất nhiều. Chiều nay khi kiểm điểm
hàng quân, ông chi đội trưởng báo cáo là bác Năm đă
“hạ chiến” khi xe về ngang qua rạp Diệp Kính.
Nơi
ông ta tiềm ẩn một bản tính khác thường. Thường th́ những người
nghiện rượu không bao giờ tự chế được. Nơi bác Năm Đành có một
tính tự chủ cao độ, nếu không nói là kỳ diệu.
Về hậu cứ, th́ lúc nào bác Năm cũng say sưa lúy
túy, say quất cần câu; nhưng khi thấy tôi xách bản
đồ lên xe đi họp hành quân là một giọt rượu
cũng không, kể cả những cuộc hành quân dài hạn. Bác ta là một người lính thiện
chiến và dũng cảm
phi
thường. Bọn lính trẻ
khâm phục và tín nhiệm nơi tài chỉ huy của bác.
“Dời căn cứ”
Một
buổi sáng nọ, Đại
Tá Liên Tư Lệnh BK24 và Trung Tá Dung, Thiết Đoàn Trưởng
ThĐ3KB (xếp tôi) đáp xuống gần cầu Vơ Định
– Tôi xuống gặp họ.
Đại
Tá Liên chỉ khu đất nằm về phía Đông Bắc
cầu QL14 và bảo tôi: “Ta nghĩ chỗ này tốt để
“chú mầy” đưa căn cứ hỏa lực về đây. Nói chuyện với tôi ông thường
xưng hô như vậy. Tôi thích
làm việc với ông ta kèm theo sự kính trọng v́ ông ta không
bao giờ dùng quyền lực để áp đặt tôi.
-Đó
là một vùng đất cao, khá rộng đủ để
tổ chức thành một căn cứ hỏa lực, hơn
nữa đó đây có một ít cây rừng và mấy bụi
le lớn, trong thơ mộng lắm – nhưng có mấy điểm
bất lợi.
-Không
có xạ trường tốt - Về phía Nam Đông Nam là cánh
đồng trải dài hơn 1 km là làng Vơ Định (có cả
người Thượng lẫn người Kinh – khi đụng
trận tôi không được phép cấp thời xử dụng
hỏa lực Thiết Giáp.
-Không
đủ địa bàn để điều động
Thiết Giáp.
-Một
đường tiến sát từ hướng Đông Bắc
dẫn tới căn cứ.
Đó
là một đường thông thủy sâu hơn đầu
người, nền sỏi đá chắc chắn, nước
tới mắt cá chân, dễ di chuyển – phía trên nhánh cây chồi
bắt chéo qua như cái lộng.
Đường này có khả năng che dấu cả
mấy mươi người, nếu đứng hai hàng dọc. Tháng trước, đích thân tôi đi
bộ xuống thám sát đường này.
Tôi
tŕnh bầy với Đại Tá Liên và xếp tôi. Ông ta bảo: “Chú mầy” ḿnh đồng
da sắt mà sợ ǵ. C̣n việc
phản công, xử dụng hỏa lực, nó có qui luật
của chiến trường, ta đă bảo chú mầy hôm
họp hành quân ở Bộ Tự Lệnh.
Thấy
tôi cứ đứng do dự, ông ta bèn tiếp:
-Chú
mày sao chai ngắt vậy, để lính trên rừng hoang vắng
lâu ngày họ sẽ buồn mất hết tinh thần chiến
đấu. Lăng mạng ướt
át một chút đi - xuống đây lính tráng c̣n có dịp rửa
mắt. Nh́n mấy cô thôn nữ
Vơ Định xinh đẹp chứ!
Tôi
có nghe, ông ta nguyên là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy
Quân Lục Chiến, vừa là một nhà văn, nhà thơ ǵ
đó – không biết có đúng không?
Ông
Trung Tá Dung sợ tôi căi nữa bèn chen vào: Thôi em nghe lời Đại
Tá đi. Dĩ nhiên là tôi phải
nghe. Cùng lúc đó tôi nghĩ
ngay đến chiến thuật hỏa công của Khổng
Minh (trong truyện Tam Quốc) để khống chế
con đường thông thủy này.
Về
đây, ngoài hệ thống pḥng thủ thông thường, tôi
sẽ cho thiết trí các thùng chứa xăng đặc (bột
thickener + xăng) thứ xử dụng trong súng phun lửa,
đặt dọc theo bờ suối. Khi địch tấn công, chúng tôi
tác xạ vào đó sẽ biến đường thông thủy
này thành con đường lửa thiêu đốt địch
quân.
Nhưng
rồi, ngày lại, ngày qua tôi chưa thực hiện được
một phần v́ việc hành quân trách nhiệm đa đoan;
cho đến một đêm bị đặc công Việt Cộng
theo đó bám vào tấn công căn cứ.
Tôi
gọi về hậu cứ ở Pleiku bảo ông Chi Đoàn
Phó lên để lo thiết lập hệ thống pḥng thủ
căn cứ mới v́ tôi phải bận đi hành quân từ
sáng sớm tới chiều chạng vạng mới về.
Bấy
lâu nay, tôi để ông ta ngồi chơi xơi nước
ở hậu cứ, không phải không có lư do.
Hôm
tôi mới về nhận quyền chỉ huy Chi Đoàn, ông
ta nói với tôi:
-
Trước đây (với ông Chi Đoàn Trưởng tiền
nhiệm), trong Chi Đoàn này “tôi” là người giải quyết
toàn bộ, từ việc chỉ huy hành quân, tiếp liệu,
hậu cứ….Nghĩa là nhứt cử nhứt động
ǵ cũng phải trông cậy vào tay ta.
-Thiệt
là chói tai quá sức, nhưng tôi không đốn ông ta
ngay. Tôi ôn tồn bảo:
-Tôi
biết anh có nhiều kinh nghiệm chiến trường,
chỉ huy lính tráng (v́ ông ta từ hàng binh lên, đi lính Thiết
Giáp hồi c̣n quân đội Pháp). Tôi hy vọng anh cũng sẽ
giúp tôi như đă giúp ông Chi Đoàn Trưởng cũ vậy.
Một
hôm Chi Đoàn đi hành quân vùng rừng núi Lệ Chí, mục
tiêu là mấy cái làng cũ quanh các chân núi. Để thử tài, tôi bảo ông
ta chỉ huy 2 chi đội băng suối đi trước,
tôi với 2 chi đội dàn trên đồi nh́n qua.
Qua
được suối, ông cho lệnh chi đội đi đầu
men theo đường ṃn dần dần xuống chân núi. Tôi bảo ông:
-Họ
đi lạc rồi, quay lại đi. Ông bảo tôi:
-Chúng
tôi (trong đó có xe ông) đang đi trên đường ṃn
dẫn đến mục tiêu.
Đúng rồi.
-Tôi
biết, anh đang ở trên đường ṃn, nhưng nó
dẫn anh về phía Tây Nam, c̣n các mục tiêu th́ ở phía Đông
Bắc. Anh xem lại bản đồ
và địa bàn sẽ rơ. Hăy cắt
rừng mà đi, đừng lệ thuộc vào đường
ṃn. Ông ta thuộc loại sống
lâu nên lăo làng, làm việc theo lối rập khuôn nhiều hơn
là sáng kiến và kinh nghiệm nhiều về chiến xa nhưng
ít có cơ hội băng rừng lội suối, lục lọi
các hang cùng ngơ hẻm như ở M113.
Lần
này, khi lên Kontum nhận lệnh hành quân, tôi biết là chuyến
đi lâu ngày, nên gọi ông ta lên:
-Việc
hành quân không quan trọng lắm, một ḿnh tôi lo liệu được. Tôi cần anh với tư cách kiêm
nhiệm Sĩ Quan Tiếp Liệu, ở lại hậu cứ
lo việc tiếp liệu, tiếp vận cho tôi. Tiếp liệu kém th́ đơn vị
không hoạt động được.
Làm
như vậy để gián tiếp nói cho ông ta biết:
Không
có ông, tôi có chỉ huy tác chiến được không? Theo ông ta nghĩ chắc là không. V́ tôi mới ra trường có 3 năm
mà mất hết 1 năm biệt phái đi làm Chánh Văn Pḥng
BTL/BK24. Hai nữa, tôi có ư như
vậy để lính tráng nó thấy tôi đồng cam cộng
khổ, sống chết bên họ….
Quyết
định như vậy, cũng thành công một mặt,
nhưng mặt khác thất bại.
Ở
nhà, ông ta có cơ hội tác oai tác phúc, tu tập ăn nhậu
ở hậu cứ và lem nhem tới vụ xăng nhớt,
gây tai tiếng.
Ông
ta đến, tôi giao cho 2 chiếc xe ủi đất (vừa
được tăng phái) để lại cho ông ta 1 phân đội
M113 để an ninh và có nhân sự làm việc. Tôi dẫn ông ta đi chỉ từ
lùm cây bụi cỏ, cây nào, bụi le nào bứng đi, bụi
nào để lại….Ở giữa, tôi chọn 1 vị trí
rất tốt, cho đào một cái hầm làm pḥng chỉ
huy hành quân. Tại đây có 4 bụi
le lớn, rất thích hợp cho việc ngụy trang và che
chớ xe M113. Hai bụi ngay phía
sau, hai bụi bên phải, trái.
Tôi dự kiến xe ông Chi Đoàn Phó đậu giữa
hai bụi le phía xau, hông mặt là xe M113 chỉ huy, hông trái và
kề miệng hầm là chiếc M577, vừa là đài truyển
tin, vừa là xe chỉ huy và là chỗ ngủ của tôi. Bên trái tôi là Trung đội Pháo
Binh VN (105ly), sau này là Ban Chỉ Huy của Pháo đội (-)
155ly cơ dộng của Mỹ.
Ban
ngày, tôi đi hành quân, tối về căn cứ cũ, hai
ngày đầu chưa có việc ǵ xẩy ra, v́ họ đang
lo ủi đất và làm ṿng đai pḥng thủ bên ngoài.
Đến
ngày thứ ba, sau khi chỉ huy lục soát trên đường
và chờ cho đoàn “convoy” Mỹ qua rồi, bất thần
tôi chạy về đó xem kết quả. Vừa chạy vào trong, tôi thấy
trên đầu lưỡi xẻng của chiếc xe ủi
đất, bụi le “yêu dấu” của tôi nằm oằn
oại trên đó. Nó trên đường
đi để ném vào “sọt rác” như hai cô chị. Bực quá, tôi bảo:
-Anh
mang nó trở lại đặt vào chỗ cũ cho tôi. Ai ra lệnh cho anh bứng mấy
bụi này. Ông Chi Đoàn Phó đâu?
Theo
hướng chỉ tay của anh ta, tôi bảo tài xế chạy
tới – À, té ra ông ta đang ngồi nhậu bia. Tôi hỏi:
-Tại
sao anh ra lệnh bứng mấy bụi le đó?
Ông
ta trả lời:
-Chỗ
đó rậm quá, bứng cho quang đăng.
Tuần
sau, căn cứ làm xong, ông ta về. Tôi cho thay và nhận về Thiếu
Úy Đào Sawuth, học tṛ cũ của tôi ngày xưa cũng
là người bạn cùng chết cùng sống với tôi
trong dịp Tết Mậu Thân ở Kontum.
Đại Đội “Rome Plows”
Rồi
ngày lại ngày qua, BTL/BK24 phối hợp với Sư Đoàn
4 Bộ Binh Hoa Kỳ cho thực hiện chương tŕnh
khai quang 2 bên đường, mỗi bên vào sâu 100m để
địch không bám vào bụi cây phục kích đoàn convoy.
Họ
gửi đến khu vực tôi trách nhiệm, 1 Đại Đội
khai quang (Rome Plows) gần mấy mươi chiếc xe ủi đất hạng trung (35 tấn?). Ban ngày Chi Đoàn tôi có nhiệm vụ
bảo vệ an ninh cho nó làm việc, ban đêm nó tự pḥng
thủ.
Mỗi
buổi sáng nó đi theo sau lưng Chi Đoàn tôi, không cần
phải chờ Công Binh ḍ ḿn. Lên
đến vị trí là khai triển đội h́nh nấc
thang ở 2 bên đường.
Nó
đi tới đâu, cây rừng ngả bẹp tới đó,
kể cả cổ thụ to mấy người ôm. Có rất nhiều gỗ quí như
tắc, hương, gơ… ở đây h́nh như không có cây cẩm
lai. Có nhiều cây to, khi nằm
xuống đất, cao ngang bụng tôi.
Thế
gian thường nói: “Lúa thóc đâu, bồ câu đó”. Chiến
trường bây giờ vui nhôn hẳn lên. Hằng ngày dập d́u, không phải
tài tử giai nhân mà là các bóng hồng bay lượn trên Honda
- Đạo binh này vô địch ở đây. Đường chưa mở, chưa
rà ḿn, họ cứ đi – Không sợ Việt Cộng, cũng
không sợ ḿn, bẫy.
Tôi
nói rừng núi bây giờ vui nhộn lên và lính tôi cũng phấn
khởi v́ thỉnh thoảng được xem những cảnh
làm t́nh rất sống động.
Thường th́ họ nằm trong các bụi rậm và
khi cả trời đất đảo điên, sự đời
quên hết; lính tôi nó thưởng thức đă mắt rồi,
bèn lấy trộm quần áo mấy anh lính Mỹ - Của
mấy em th́ không – Có lẽ họ quá kinh nghiệm nên dấu
kỹ chăng? Hay có “hối lộ” cho lính?
Tôi
bảo đem trả cho họ.
Tội nghiệp. Ban đầu,
tôi cũng hơi bực ḿnh. V́
ḿnh giữ an ninh cho nó làm việc, nó lại biểu diễn
tṛ khỉ. Nhưng nghĩ lại,
cũng phải cảm thông cho họ. Gặp hoàn cảnh như thế
“thế th́ phải thế”, tức cảnh sinh t́nh. Tôi sực
nhớ mấy câu thơ:
“Dăm gă thư sinh vừa lạc
đệ,
Mươi nàng xuân nữ sớm
ch́m châu.
Cảm thông một phút bừng
ân ái,
Miếu nguyệt vườn
sương gặp gỡ nhau.
(Vũ Hoàng Chương)
Học
tṛ thi rớt mà c̣n t́m mấy nàng để giải sầu,
huống chi lính Mỹ nó xa nhà, xa vợ con mât mát tất cả,
hưởng một chút “sự đời” cũng không có ǵ
đáng trách.
Nhưng
trên cương vị chỉ huy và trách nhiệm, tôi phải
đề pḥng v́ sợ đặc công Việt Cộng trà
trộn
vào
đó nên thường cảnh giác họ qua anh Đại Úy
cố vấn Mỹ.
Nhân
đây, tôi xin kể về sinh hoạt của Đại Đội
khai quang này. Mặc dù là đi
hành quân, nhưng nó không thiếu một chút tiện nghi nào. Pḥng ăn, nhà bếp Sĩ Quan, cầu
tiêu, nhà tắm thiết trí trên một cái trailer dài. Ông Đại Úy Đại Đội
Trưởng, qua anh cố vấn Mỹ mời tôi và tất
cả Sĩ Quan Chi Đoàn dùng cơm ở đó. Tôi cám ơn và từ chối, ly do
chúng tôi phải thường trực trên xe với lính, vả
lại cũng không muốn nhờ vả họ. V́ nó ở sát bên căn cứ tôi mà
đất nó không đủ rộng nên xin phép tôi đặt
nhà tắm cho binh sĩ ở bên này.
Buổi chiều, hành quân về, tôi thấy nó cẩu
tới một bồn cao su thật lớn, treo dưới
một cái giàn to. Tôi hỏi Đại
Úy cô vấn, nó bảo: Đó là
nhà tắm lộ thiên. Hàng ngày
nó cho xe về Kontum mua nước đá cây bỏ vào đó
rồi đem xe bồn nước bơm vào cho lính tắm. Bên dưới có mấy chục cái
ṿi sen.
Thực
phẩm rau cải, nó không mua ở VN mà ở Phi Luật Tân,
có lẽ để tránh VC đầu độc.
Một
hôm nó thiết trí cái sân khấu lộ thiên, tôi hỏi để
làm ǵ - Nó bảo chiều nay có “Show” – mà các diễn viên cũng
ở Phi Luật Tân qua – Không có màn 100% nhưng cũng quá gợi
cảm. Bọn họ và cả
lính Mỹ của Pháo đội (-) Mỹ mới về ở
với tôi hoan nghênh lắm. Anh
Đại Úy cố vấn bảo:
-
Cứ mỗi 3 tháng là họ được hưởng 1
lần như vậy.
Tôi
nói với anh ta: Mỹ nuôi một
anh lính bằng VC nó nuôi 20 người.
Đêm
nọ, một ông Sĩ Quan của tôi lên xe M577 gặp tôi, nói
anh cố vấn Mỹ muốn mời tôi qua Đai Đội
khai quang để xem phim “cấm trẻ em…” Anh ta không dám ngỏ lời v́ hắn
ta biết tôi là người Công Giáo lại trông có vẻ thánh
thiện quá.
Thật
ra, tôi không “thánh thiện” như anh ta tưởng. Tôi là mẫu người thích rượu
ngon, gái đẹp – Trên thế gian này ai là người không
thích nh́n gái đẹp khỏa thân? - miễn đừng đụng
chạm tơi vợ người hoặc con gái c̣n trinh nguyên. Tôi chịu ảnh hưởng sâu
sắc giáo dục của mẹ tôi từ thuở nhỏ,
chớ không phải chờ tới sau này theo giáo lư Công Giáo. Bên Công Giáo, ông Thánh Giuse là mẫu gương
tiêu biểu nhứt – ông ta “trường chay” suốt đời. Nhưng tôi xin hỏi: - Trong lịch
sử nhân loại, kể từ khi có loài người:
-Có
mấy ông Thánh Giuse?
-Thú
thật, tôi cũng không muốn là ông Thánh Giuse thứ
hai. Chắc nhiều người
thánh thiện bên Công Giáo lên án tôi là con quỉ Satan – Đành
chịu thôi.
*****
***
Sau
đây là những mẩu chuyện nho nhỏ, buồn vui lẫn
lộn nhưng nó khác sâu vào trong tâm khảm tôi, trong trái tim tôi,
tuôn trào trong huyết quản tôi, những kỷ niệm mà
ngàn đời, tôi cũng không thể nào quên được.
Bây
giờ, tôi đă già rồi, mắt tôi mờ, sức tôi đă
ṃn nhưng mỗi khi nhắc tới, những h́nh ảnh xưa
lại hiện ra rơ như mồn một, sống động
như xem lại cuốn phim đời.
-Trong
đó t́nh đồng đội sống chết có nhau. T́nh yêu Tổ Quốc, Quê Hương
- Sự hy sinh xả thân ḿnh cho Nghĩa Vụ, cho Trách Nhiệm.
Trước
tiên là một câu chuyện t́nh lăng mạn, nên thơ và ướt
át. Nó không thua ǵ câu chuyện t́nh
trong “Những đồi hoa sim” của thi sĩ Hữu
Loan.
-Chàng
là một Sĩ Quan Kỵ Binh trẻ tuổi, hào hoa phong nhă
– Nàng – Cô vợ mới cưới mơn mởn đào tơ. Nàng vượt cả ngàn dặm đường
xa đến thăm chàng tận vùng rừng núi Cao Nguyên hiểm
trở, đèo heo hút gió rồi cùng chàng khoác chiến y lên ḿnh
ngựa… ngồi sau lưng chàng tiến ra chiến trận…Nhưng
chiến trường đâu phải là nơi chứng kiến
những thiên t́nh sử mà nó thường phảng phất đâu
đây h́nh ảnh man rợ của chiến tranh, của chết
chóc, của mất mát và đau thương. Nhưng cũng từ đó mà nổi
bật lên những h́nh ảnh can trường, dũng cảm
phi thường. H́nh ảnh của
một chiến binh bị cháy bỏng người như cây
đuốc, đau rát cùng cực vẫn c̣n b́nh tĩnh khuyên
nhủ đồng đội cố gắng chịu đau,
đừng khuấy động để cấp chỉ
huy điểu khiển trận chiến đang hồi khốc
liệt.
-H́nh
ảnh của một kỵ binh ngồi trên ḿnh ngựa băng
ḿnh giữa đạn lạc tên bay, đốc thúc binh sĩ
chiến đấu vẫn c̣n rơi mắt ǵn giữ, chở
che cấp chỉ huy của ḿnh đang ở trong t́nh trạng
hiểm nguy đến tính mạng.
Câu chuyện bắt đầu:
Hàng
ngày, tôi phối trí 2 chi đội Thiết Kỵ và chi đội
súng cối 4.2 ở lại căn cứ pḥng thủ đêm
và cho 1 chi đội tăng cường ĐPQ giữ cầu.
Lư
do: tôi không muốn tập trung quá nhiều Thiết giáp một
chỗ, hai nữa tôi dùng nó như một lực lượng
trừ bị - khi có biến động, tôi điều động
nó đánh bọc bên ngoài căn cứ.
Các
chi đội cứ luân phiên nhau mỗi tuần một lần,
rồi hoán đổi.
Một
buổi chiều nọ, sau khi hành quân về, các Sĩ Quan tụ
tập trong hầm chỉ huy để chuyện tṛ. Một ông Sĩ Quan nói với tôi:
-Vợ
của Thiếu Úy Cẩm mới lên, c̣n đang ở ngoài đồn
ĐPQ. Tôi nói với anh Cẩm:
-Ngày
mai anh cho chi đội vào đây, và trong thời gian này, anh
chị ở trong hầm chỉ huy, vừa an ninh, vừa có
phong cách. Đừng ngại
chi, v́ tôi chỉ ngủ trên xe M577.
Và đêm mai Thiếu Uư Châu cho chi đội xuống
thế.
Anh
ta ái ngại, một phần v́ nể nang tôi, phần khác sợ
lính tráng các chi đội kia xầm x́ chăng, nên từ chối.
-Không
sao đâu Trung Úy. Vợ tôi chỉ
ở chơi ít hôm thôi.
Tôi
không ép, v́ sợ anh ta mất thoải mái. Một hai ngày sau, sực nhớ
ra, tôi hỏi thăm:
-Chị
ấy đâu rồi? Anh ta bảo:
-Đi
về rồi. Tôi bảo:
-Sao
anh không nói với tôi để lấy xe Jeep đưa chị
ấy về Pleiku. Rồi th́
tôi cũng quên đi.
Một
buổi sáng, chi đội anh đang tiến hành lục soát
khu vực phía Tây quốc lô. Tôi
ở trên đồi bên này nh́n sang giám sát. Tầm xa chắc cũng khoảng
150 mét.
Xe
anh đang di chuyển trong rừng thưa. Tôi chợt
nh́n
thấy trên xe, một anh lính có đầu tóc chờm bởm
sau gáy. Tôi bấm máy:
-Thanh
Long, anh có thằng em nào để tóc chờm bờm vậy. Tôi không muốn thấy. Chiều nay về, bảo hắn
hớt tóc rồi lên tŕnh diện tôi ngay. Một vài xe khác, bấm máy truyền
tin cười khúc khích. Tôi nghiêm
giọng:
-Tôi
không đùa với các anh.
Nói
xong, tôi sực nghĩ lại, bèn im luôn.
Chiều
lại tôi nói với anh ta:
-Anh
không thể cho chị ấy đi theo hành quân như vậy
được, lỡ có ǵ bất trắc th́ sao?
-Khi
nào chị ấy về, anh cho tôi biết, lấy xe Jeep đưa
chị về Pleiku tạm trú với vợ tôi, trong khi chờ
đợi phương tiện về Đà Nẵng.
Kể
chuyện này, tôi phải nhắc lại thời gian 2, 3 tháng
trước đây – Xe M113 anh đi, cứ ́ ạch hoài, nay
bệnh này, mai bệnh kia. Tôi
bảo:
-Anh
phải nói tài xế nó năng bảo tŕ chứ. Thậm chí, tôi cho toán sửa chữa
đi theo, cũng không cải thiện ǵ hơn.
Tháng
trước, chúng tôi vừa tiếp nhận 4 chiếc M113
nguyên thủy từ Mỹ về, chớ không phải xe tân
trang. Tôi ưu tiên cho anh ta một
chiếc, rồi nói đùa:
-Kỳ
này mà c̣n ́ ạch nữa th́ đừng đổ thừa
xe cũ.
Rốt
cuộc, sau khi cơ vợ về, chiếc M113 từ Mỹ
Quốc cũng ́ ạch luôn. Mấy
ông Sĩ Quan (toàn trẻ) rũ ra mà cười ghẹo. Tôi nghĩ, đây là một kỷ
niệm đẹp. Anh em chúng
ta trong Chi Đoàn nên ghi lại trong quyển hồi kư này.
*****
***
Việc ǵ đến, rồi sẽ đến…
Một
buổi xế chiều, tôi đang ngồi nghỉ trưa
trên vơng. Thiếu Úy Châu, chi đội
trưởng CĐ1 báo là Thượng Sĩ Y-Am vừa bắn
hạ một con nai. Con thứ
hai bị thương, thoát chạy. Anh ta nghĩ là nó không thể chạy
xa được nên xin phép đi t́m. Tôi đồng ư, dặn phải đưa
xe theo để yểm trợ. Rốt cuộc đưa về
cả 2 con.
-Anh
ta ŕnh rập thầy 2 con nai, anh nghĩ đó là 2 mẹ con
nên ngắm bắn nai con trước, nai mẹ không chạy,
cứ lẩn quẩn đó, nên anh bắn hạ tiếp. Mổ thịt ra, vỡ lẽ nai
mẹ lại là con nai chửa.
Sau
khi căn cứ bị đặc công tấn công, lại đúng
vào xe Y-Am, có người bảo tại v́ bắn nhằm
nai chửa. Tôi không tin dị đoan,
nhưng chỉ kể lại sự kiện thực đă
xẩy ra.
Theo
thông lệ của Chi Đoàn, khi có bắn được
thú rừng lớn chi đội có xạ thủ sẽ được
phần lớn, c̣n lại th́ chia xẻ cho các chi đội
khác để anh em cùng vui. Kỳ
này bắn được cả 2 con, ăn như vậy cũng
phí. Tôi bảo Y-Am:
-
Anh bắn được 2 con, vậy 1 con cho Chi Đoàn, c̣n
con kia là của riêng anh. Tôi cho
anh xử dụng xe Jeep tôi, chở nó về Kontum bán và thoải
mái một đêm. Y-Am trả lời:
-
Cám ơn Trung Úy. Nhưng tôi là
chi đội phó mà chỉ v́ con nai mà bỏ anh em đêm nay
là không đúng. Thôi để mấy
em đem về bán dùm tôi.
Anh
ta là người Thượng (dân tộc thiểu số). Đó là một lời vàng ngọc
xuất pháp từ cửa miệng của một người
chất phác, thật thà… là một bài học quí giá về
nghệ thuật lănh đạo chỉ huy mà tôi và mọi người
cần phải học.
Thú
thật trong suốt cuộc đời binh nghiệp của
tôi, tôi “học” nhiều ở thuộc cấp tôi hơn là
tôi “dậy” họ.
*****
***
Đêm hôm ấy,
trời thật lạnh và sương mù dầy đặc. Anh em vui chơi, chén thù chén tạc
cũng hơi khuya - Khoảng hơn 11 giờ đêm, tôi vào
xe chỉ huy nằm nghỉ.
Vừa chợp
mắt th́ phải bừng dậy, v́ một tiếng nổ
thật lớn và lửa bùng lên phía sau hầm chỉ huy cách
xe tôi khoảng 30 mét. Th́ ra đặc
công, di chuyển theo đường thông
thủy, lợi dụng sương mù, cắt đứt ḿn
chiếu sáng bám vào được ṿng đai ở khoảng
giữa hai xe, bắn B41 vào xe M113 của Y-Am (có trang bị đại
bác 106ly không giật), đậu bên trong v́ là xe trừ bị.
Trong đêm tối
mịt mù, qua màn khói lửa chập chờn, Y-Am, ḿnh mẩy
nhu cây đuốc, lững thững đi vào hầm chỉ
huy cùng 1 anh lính (người Việt gốc Hoa) cũng bị
cháy. Tôi bước xuống hầm. Lúc đó 2 anh đă được
mầy người bạn dập tắt lửa và y tá săn
sóc.
Anh lính trẻ
đau rát quá, kêu ầm lên. Y-Am
b́nh tĩnh khuyên anh ta: “Em đừng la to, để cho “Khủng
Long” làm việc. Anh bị cháy
phỏng như em, nhưng có kêu la đâu.
Tôi trở lên
xe chỉ huy, bảo cố vấn Mỹ gọi phi cơ
chiếu sáng và phi tuần C130 bắn bằng hồng ngoại
tuyến tác xa dọc theo đường thông thủy. Pháo đội (-) của
Mỹ dùng 2 chiếc Duster bắn liên hồi. Không có tên đặc công nào đột
nhập được vào bên trong căn cứ.
Thiếu Úy Đào
Sawuth, Chi Đoàn Phó, lên xe chỉ huy chạy ṿng bên trong căn
cứ để đốc thúc các chi đội phản công.
Tôi đang liên
lạc với Trung Tâm HQ/BTL/BK 24 th́ nghe tiếng loa bên tần
số nội bô tiếng của Thiếu Úy Đào Sawuth la
to “Khủng Long” núp xuống pháo tháp, đạn lửa bay
qua đầu nhiều lắm.
Đó là đạn
đại liên 30, 50 bay qua cửa vuông, đồng
thời với tiếng rào rào của muôn ngàn mũi tên đạn
đại bác 106ly không giật bay vào các bụi le: mấy lá chắn thiên nhiên to lớn
và đa dụng.
Nếu
tôi không cho đem trồng lại mà “để cho nó quang đăng
theo lời ông cựu Chi Đoàn Phó nói th́ thân thể tôi ghim đầy
mũi tên, kể cả đạn 12.7 ly.
Khoảng
gần 2 tiếng đồng hồ sau, tiếng súng ngưng
hẳn, chúng tôi mới tải thương được.
Về bệnh viện, qua hôm sau th́ anh lính trẻ chết v́
bị phỏng quá nặng. Thượng
Sĩ Y-Am bị cháy xém mặt, các ngón tay bị co lại. Mấy tháng sau, nhờ nắn bóp
tập luyện, nó dăn ra, tay không b́nh thường nhưng vẫn
xử dụng súng ống được.
Gần
sáng, tôi để 1 chi đội ở lại lục soát,
c̣n Chi Đoàn (-) phải làm nhiệm vụ hàng ngày. Dọc theo đường thông thủy,
đặc công VC để lại 6 tên. Chi đội cũng không có khả
năng đi lục soát quá xa, nên không rơ đích xác thiệt
hại của địch.
Tổn
thất của Chi Đoàn là 1 quân nhân tử trận và 1 chiếc
M113 bị cháy. Tuy không phải
là nặng nhưng tôi hết sức bực ḿnh v́ chuyện
ḿnh đoán trước mà không làm được để
biến cái đường thông thủy kia thành con đường
lửa thiêu đốt địch quân.
Thường
th́ khi đặc công VC xâm nhập được vào bên
trong căn cứ th́ số tổn thất sẽ rất nặng
như trường hợp đại đội trực
thăng Mỹ đóng tại phi trường Kontum vào năm
1967 – VC đă bắn cháy mười mấy chiếc trực
thăng và gần 10 nhân mạng.
Sự
việc xẩy ra, dậy cho tôi một bài học “Việc
ǵ thấy đúng là phải làm ngay - Đừng để đến
ngày mai”.
Kinh
nghiệm chiến trường học được phải
trả giá bằng máu, bằng sinh mạng con người và
đôi khi bản thân ḿnh cũng không c̣n để thực
hiện cái kinh nghiệm học hỏi được.
*****
Một Thời Chinh Chiến
II
Vài câu chuyện mùa hè đỏ lửa
năm 1972
Và
Cuộc di tản đẫm máu
trên Liên Tỉnh Lộ 7B
Vài ḍng tâm sự…
Tôi vội vă kết thúc thiên hồi kư này v́ đă
bước vào tuổi 80, cái tuổi mà trí nhớ lặng lẽ
ra đi không một lời từ giă; mắt đă mờ,
sức đă kiệt, tay tôi run rẩy nhiều, chắc
không c̣n cầm bút được bao lâu nữa.
Tôi xin phép ghi lại những kỷ niệm xa xưa
để tưởng nhớ đến những bậc
đàn anh, các cấp chỉ huy và những bạn đồng
hành, đă ra đi hay c̣n ở lại, những người
hữu danh hay vô danh…. “đă cùng tôi đi trên mọi nẻo
đường của núi rừng Tây Nguyên, từ Ben Het
đến Phượng Hoàng Tân Cảnh, Dakto, từ Đức
Cơ, Pleime đến IA Drang, thung lũng của tử thần…”
***
*******
****
Trước hết
tôi phải kể đến một người:
Trung Tá
Đào Trọng Trấn:
-Đại
Úy Đào Trọng Trấn nguyên là Chi Đoàn Trưởng
Chi Đoàn 4/3 TQV mà tôi là Chi Đội Trưởng của
ông vào năm 1966. Hơn ai hết,
ông là người hiểu biết tôi, nâng đỡ tôi trên
bước đường binh nghiệp, người
đă tiến cử tôi làm Chi Đoàn Trưởng, mặc
dù tôi chỉ là một Thiếu Úy c̣n non.
Khi
tôi nhận chức Chi Đoàn Trưởng (CĐT) CĐ2/3
Thám Thính th́ có tiếng xầm x́:
Cái ông Thiếu Úy này có cái gốc to như cái gốc
cây cổ thụ. Họ ám chỉ
tôi dựa vào cái gốc của Đại Tá Luật, nguyên
Tư Lệnh Biệt Khu 24 (BK24).
Sau
Tết Mậu Thân, khoảng tháng 3/1968, ông Luật rời
chức vụ Tư Lệnh BK24 và về tạm trú ở
cư xá Sĩ Quan Pleiku, tôi cũng theo về đó.
Thiếu
Tá Dung, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 3 Kỵ
Binh (ThĐ3KB) cho người tới mời tôi về làm
CĐT CĐ1/3 CX thay thế Đại Úy Nguyễn Văn Triết, bị
thương nặng trong Tết Mậu Thân. Tôi từ chối. Như vậy, tôi làm CĐT CĐ2/3 Thám Thính sau đó
vài tháng, không phải là do cái gốc của Đại Tá Luật
Tư Lệnh BK24. Vậy
nguyên nhân từ đâu ra?
Đó là sự tiến cử của Thiếu Tá
Đào Trọng Trấn, hiện là Thiết Đoàn Phó và
cũng là đôi bạn tâm giao của Thiếu Tá Dung.
Ông
Trấn là con người rất lịch duyệt, hiểu
đời, có cách xử sự của một đàn anh, một
người thầy…. Tôi biết ơn ông ta và học hỏi
nơi ông ta rất nhiều về cách ở đời.
Ông
Đào Trọng Trấn đă hy sinh trên chiến trường
Kampuchia khi chỉ huy một Thiết Đoàn Kỵ Binh
để lại vợ và 10 đứa con. Trung Tá Trấn xứng đáng với
danh hiệu “Vị Quốc Vong Thân”.
Thiếu
Tá Nguyễn Văn Đêm:
Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 8 Kỵ
Binh.
-Trung
Úy Nguyễn Văn Đêm nguyên là Chi Đoàn Phó CĐ 4/3
TQV. Tôi và Trung Úy Đêm là hai
người bạn chí thân, phải nói như vậy. Đối với tôi, ông ta không
coi ḿnh là cấp chỉ huy.
Chúng
tôi rất “tâm đầu ư hiệp” nhất là quan niệm
hành quân, đôi khi cũng cần “táo bạo và liều
lĩnh”, chắc chúng tôi có ít nhiều máu điên trong huyết
quản chăng? Điều
này th́ không thích hợp với Trung Tá Nguyễn Trọng Luật,
Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 3KB/TG lúc đó.
Tôi
xin kể một kỷ niệm vui vui của hai người
lính trẻ: Vào khoảng cuối
năm 1966, ông Luật có tổ chức một chiến
đoàn đi hành quân lục soát khu rừng rậm dầy
đặc vùng Lê Chí. BCH ông ta
cùng Chi Đoàn 1/3CX và Tiểu Đoàn (-) BĐQ đi một
cánh. Đại Úy Trấn
CĐT 4/3 TQV và 1 Đại Đội BĐQ đi một
cánh. Tôi là Chi Đội Trưởng
dẫn đầu Chi Đoàn.
Suốt
một ngày từ sáng tới tối phải cán rừng mà
đi, nhiều chỗ không thấy ánh sáng mắt trời. Chạng vạng tối chúng tôi
t́m được mục tiêu là cái làng Thượng bỏ
hoang từ nhiều năm để làm chỗ đóng quân
đêm. Cánh bên BCH bị kẹt
giữa rừng già, không ra được, mặc dù có máy
bay L19 hướng dẫn, phải nằm hàng dọc trong rừng.
Sáng
lại, chúng tôi tiếp tục đến một bờ suối
rộng khoảng 7 mét toàn ghềnh đá, nước chẩy
như thác. Trung Úy Đêm và Chuẩn
Úy Vơ Văn Trạc, chi đội trưởng bố trí, bảo
vệ an ninh. Tôi lội xuống
nước ḍ từng tảng đá ngầm…. rồi quyết
định vượt qua.
Tất
cả đều qua suối trót lọt cùng tiến chiếm
ngự mục tiêu khác trên một ngọn đồi. Bố trí xong, nấu nướng
ăn uống và giăng vơng nằm nghỉ…
Độ
2 tiếng đồng hồ sau, Đại Úy Trấn qua tới. Ông nói mát:
Các anh nằm ngủ sướng quá, tôi bị Trung Tá
Luật dũa te tua.
-Việc
ǵ mà dũa, chúng tôi bảo.
Th́ ra khi BCH vừa tới, ông Luật
nh́n xuống suối và hỏi:
-Mấy
đứa con anh qua rồi mà qua chỗ nào?
Ông Trấn chỉ Trung Tá Luật,
ông ta hỏi:
-Đứa
nào qua?
-Dạ
Chuẩn Úy Đông.
Ông ta gọi hết chi đội
trưởng, trưởng xa xuống xe giảng cho một
bài học “bạt mạng này” để rút kinh nghiệm,
đồng thời huy động toàn bộ nhân lực
dùng cưa, búa, đốn cây rừng sắp xuống suối
lót đường qua. Tôi với
ông Đêm tủm tỉm cười với nhau. Trên
phương diện thẩm mỹ, nghệ thuật, tôi và
ông Đêm có óc tưởng tượng, pha chút bay bướm
và lăng mạn.
Trên
đường hành quân về, nh́n vào cái khe bên sườn
đông của núi Hàm Rồng, chúng tôi h́nh dung là h́nh tượng
bán thân của một nàng vệ nữ khỏa thân. Không hiểu chúng tôi có phải là hậu
duệ của bà Hồ Xuân Hương chăng? Tôi với ông Đêm rất khắng
khít; thỉnh thoảng tâm t́nh với nhau qua tần số
đặc biệt với danh xưng là “Đêm
Đông”. Nghe nói Thiếu Tá
Đêm bây giờ cũng già yếu bệnh hoạn như
tôi (hai người cùng tuổi).
Tiếc là tôi không liên lạc được.
Đại
Tá Nguyễn Trọng Luật:
Khoảng
tháng 3/1967, Trung Tá Nguyễn Trọng Luật Thiết
Đoàn Trưởng ThĐ3KB được bổ nhiệm
làm Tư Lệnh BK24 Kontum.
Đó là sự thăng hoa lớn trên bước
đường binh nghiệp của ông ta v́ cấp số
của Tư Lệnh BK là Chuẩn Tướng.
Ông
ta đưa tôi đi theo với tư cách là Sĩ Quan Tùy
Viên, nhưng trên thực tế, tôi c̣n đảm nhận chức
vụ Chánh Văn Pḥng, v́ ở đó có một ông Đại
Úy già đang ngồi chơi xơi nước. Ông ta học chưa hết tiểu
học th́ không thể nào làm Chánh Văn Pḥng được.
Ông
Luật rất “cẩn thận” nên không làm văn thư
chính thức bổ nhiệm tôi.
Tôi cũng không cần, v́ tôi ở binh chủng Thiết
Giáp biệt phái qua Bộ Binh là thiệt tḥi cho tôi, vả lại
tôi chúa ghét cái nghề đó.
Trong
dịp Tết Mậu Thân 1968, tôi và ông có nhiều kỷ niệm
sống chết với nhau khi VC tấn công vào tư dinh
Tư Lệnh, mục tiêu số 1 của cuộc chiến.
Địch
đă dùng 2 Đại Đội xa luân chiến, bắn sập
một trong 4 pháo đài và đánh nhau suốt 3 ngày đêm, xử
dụng đủ loại vũ khí kể cả đại
bác 75 ly không giật. Tôi lên chiến
xa M41 để phản công th́ bị thương. Sau trận Mậu Thân, ông Luật
rời chức vụ, tôi trở về binh chủng của
tôi là một Sĩ Quan ky binh Thiết Giáp.
Rời
chức vụ Tư Lệnh BK24, ông Luật ra vùng I chiến
thuật làm Tư Lệnh LĐ1KB và Tư Lệnh Phó Sư
Đoàn(?).
Ông là một trong các vị chỉ
huy mặt trận Hạ Lào (Lam Sơn 719) và trên chiến
trường Quảng Trị trong 1 ngày ông chỉ huy hạ
được hơn 30 chiến xa T54 của Bắc Việt.
Báo Diều Hâu (Saigon) tặng ông
danh hiệu “Patton VN”. Là một
con người mẫu mực, có khi quá mực thước
và nguyên tắc, nhưng luôn luôn giữ đúng phong cách của
một quân nhân, không theo phe phái chính trị.
Hiện nay, ông Luật đă quá già
(90 tuổi) lại lâm trọng bịnh phải điều
dưỡng đặc biệt tại Tiểu Bang Florida
nước Mỹ.
Đại
Tá Nguyễn Đức Dung:
Là con chim đầu đàn của
BTL/LĐ2KB.
Thủa c̣n là Thiết Đoàn
Trưởng ThĐ3KB, ông là người có “can đảm”
bổ nhiệm tôi, một Thiếu Úy non trẻ, làm Chi
Đoàn Trưởng. Không phải
chỉ định chức vụ tạm thời mà có
văn thư bổ nhiệm chính thức của Trung Tướng
Lữ Lan, Tư Lệng QĐII.
Lúc ở BK24 về, tôi cũng có lần
“căi cọ” với ông ta nhưng không v́ thế mà ông ta có
thành kiến với tôi. Tôi
nghĩ chắc ông ta thông cảm v́ biết tôi ít nhiều có
máu điên chăng?
Là một vị chỉ huy táo bạo
và gan dạ. Vào năm 1969, tôi
là Trung Úy Chi Đoàn Trưởng CĐ3/3TK kiêm chỉ huy
Căn Cứ Hỏa Lực Vơ Định. Chi Đoàn tôi đang chạm địch
mạnh phía đông bắc căn cứ khoảng 10 km. Đang đánh nhau, ông muốn lên
bao vùng. Tôi bảo chờ, ông cứ
đến. Trực thăng của
ông trúng đạn quay ṃng ṃng, may mà đáp xuống an toàn cạnh
xe chỉ huy của tôi.
Ông thuộc mẫu người chỉ
huy “tín nhiệm ai th́ dám bổ nhiệm”. Khác với Đại Tá Luật,
ông không nề hà nguyên tắc.
Có lần ông cử tôi đại diện cho ông đi
trao gắn cấp bậc truy thăng Thiếu Tá và truy tặng
Bảo Quốc Huân Chương Đệ Ngũ Đẳng
cho cố Đại Úy Diêu Phúc Hưng (lúc đó tôi là Đại
Úy) tôi phải khổ sở mà thi hành.
Khi chiến trường Tây Nguyên
sôi động, Trung Tá Trần Lư Hưng Thiết Đoàn
Trưởng đi hành quân xa hậu cứ (An Khê) lâu ngày,
tôi là người trực tiếp làm việc với ông ta tại
Pleiku.
Sau cuộc di tản đẫm máu
trên Liên Tỉnh Lộ 7B, tôi gặp ông tại BCH/Thiết
Giáp Binh ở Saigon. Lúc đó
ông đảm nhận chức vụ Tham Mưu Trưởng
cho Tướng Toàn, Tư Lệnh QĐIII kiêm CHT TGB. Sang Mỹ, tôi có điện
đàm với ông được một lần, sau này nghe
nói ông qua đời ở Jacksonville.
Trung Tá
Trần Lư Hưng:
Trong các vị chỉ huy của tôi
th́ Trung Tá Trần Lư Hưng là người gần gũi và
thân thiết với tôi như người nhà.
Trong cư xá Sĩ Quan của Thiết
Đoàn có một dẫy 4 gian.
Gia đ́nh ông chiếm ngự 3, tôi 1. Ba gian thật ra cũng chưa
đủ cho đại gia đ́nh này. Ông bà đông con lắm, cả một
“chục đủ đầu”.
Ông th́ tác người nhỏ bé mà sinh lực quả dồi
dào phong phú.
Về nhận chức vụ Thiết
Đoàn Trưởng thay thế Trung Tá Dung, ông giao cho tôi coi
Chi Đoàn Chỉ Huy Công Vụ.
Chuẩn bị vào hè 1972, chiến
trường trở nên sôi động, ông có nhiệm vụ
đi hành quân lâu ngày ở An Khê, gặp lúc Thiếu Tá Triết
đi học khóa Cao Cấp Thiết Giáp, ông bổ nhiệm
tôi Xử Lư Thường Vụ Thiết Đoàn Phó lúc tôi
mang lon Trung Úy. Thật ra lúc
đó tôi đă là Đại Úy thực thụ mấy tháng rồi
nhưng ở “Saigon” giam lỏng lon tôi. Sau này khi lên cấp Thiếu Tá
cũng y như vậy. Đó
là một trong những lư do không ai muốn ra phục vụ
miền Tây Ngưyên: vừa nguy hiểm, vừa bị thiệt
tḥi quyền lợi.
Một ḿnh tôi lúc đó đảm
nhận nhiều chức vụ lắm, kể cả Hiệu
Trưởng Trường Tiểu Học Nguyễn Viết
Qùy. Nguyễn Viết Qùy là tên
ông Thiếu Úy khóa đàn anh tôi, đă tử trận khi phục
vụ tại Trung Đoàn 3 Thiết Giáp. Nhiều chức vụ, nhưng
không có phụ cấp. Làm nhiều
th́ mệt, nhưng tôi thấy vui v́ rất thoải mái, muốn
làm ǵ th́ làm, miễn đừng làm bậy.
Khoảng
giữa năm 1972 (?) Trung Tá Hưng chỉ huy Thiết
Đoàn 3 Kỵ Binh đi hành quân ở Pleite phía Tây QL14
Pleiku-Kontum th́ xe M113 chỉ huy của ông
bị trúng ḿn. Lính nó bảo
ông bị tung ḿnh lên cao rồi văng vào một bụi cây
nằm bất tỉnh. Ông bị
ẹo xương sống, nhờ có áo giáp ông mặc nên
không bị gẫy xương.
Đó là một cống hiến lớn lao cho đất
nước này.
Đại
Tá Nguyễn Văn Đồng:
Trong phạm vi
bài này tôi chỉ ghi chép lại Đại Tá Đồng,
trên cương vị là Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ
Binh.
Phải nói Đại Tá Đồng
có gương mặt lạnh tanh và ít khi thấy ông cười. Ông ta rất tin tưởng
nơi tôi, chắc chắn không phải do tôi biết nịnh. Tôi không thích nịnh ai bao giờ.
Trong kỳ Đại Hội Thiết
Giáp Binh năm 1973, dự trù có Tướng Thiết Giáp
Abrams (Tổng Tư Lệnh Mỹ tại Việt Nam) tham dự,
ông Đồng bảo tôi soạn thảo tài liệu thuyết
tŕnh về hai đề tài:
1)- Cuộc hành quân giải tỏa
QL14 (Pleiku-Kontum) năm 1972 do Trung Tá Dung, Tư Lệnh
LĐ2KB chỉ huy.
2)- Cuộc hành quân Thiết Giáp
đổ bộ ở cửa biển Đề Gi năm
1973 do ông chỉ huy.
Ông bảo tôi cùng đi làm phụ
tá thuyết tŕnh viên (lẽ ra đó là nhiệm vụ của
Trung Tá Trần Quang Lư, Trưởng Pḥng 3 của Lữ
Đoàn). Ông chọn tôi v́
nghĩ rằng tôi am tường và đích thân tham dự
trân đó.
Năm 1974, Đại Tá Đồng
làm văn thư gửi BTL/QĐII và BCH/TG đề nghị
đưa tôi làm Thiết Đoàn Phó ThĐ8KB ở Ban Mê Thuột, Quân Đoàn II
hoan nghênh, nhưng đơn vị thụ hưởng là
Trung Tá Nguyễn Minh Tánh từ chối về BCH/TG với
lư do rất chánh đáng là cấp bậc tôi (Đại Úy)
sẽ gây trở ngại khi có Tiểu Đoàn Bộ Binh
tăng phái (thường Tiểu Đoàn Trưởng có cấp
bậc Thiếu Tá). Nhưng
cái nguyên nhân sâu sa tiềm ẩn bên trong lại khác. Tôi hiểu nhưng không quan tâm ǵ
việc đó, v́ trên thức tế, tôi không thích làm việc
với ông ta. Đó là lư do
Đại Tá Đồng đưa tôi coi lại Chi Đoàn
cho tôi có được cái lon Thiếu Tá mà làm việc. Sự kiện này đẩy
đưa tôi vào tháng 3/1975 cưỡi ngựa sắt M48
đi trên con đường máu qua đèo Tona mà mặt tôi
cũng nhuộm đầy máu đỏ. Không phải máu của tôi mà là máu
của các chiến hữu mũ nâu đi cùng tôi khi chiến
xa chỉ huy bị một viên đại bác 75 ly không giật
nă vào đầu xe. Âu cũng
là duyên số.
Trên cương vị lănh đạo,
nhiều khi ông đi ra ngoài hệ thống chỉ huy gây khó
xử cho tôi và làm phật ḷng các cấp chỉ huy trực
tiếp của tôi. Thí dụ:
vào dịp Giáng Sinh 1974, ông gọi tôi nói: -Tối nay, chú thay mặt tôi đến chủ
tọa lễ Giáng Sinh của BTL/LĐ (dĩ nhiên là bao gồm
quân nhân Công Giáo và gia đ́nh của 3 Thiết Đoàn). Tôi trả lời:
-Thưa
Đại Tá. Tôi không đủ
tư cách làm việc đó v́ cấp bậc và thực tế
hơn, tôi không phải là đại diện quân nhân Công Giáo
của BTL/LĐ. Tôi muốn ám
chỉ Trung Tá Trưởng Pḥng 3.
-Nhưng
chú là người đại diện tôi.
Trong
cuộc di tản đẫm máu trên Liên Tỉnh Lộ 7B tôi
có đề cập về ông…
Giờ chót, tôi có nghe nói vào những
ngày cuối cùng của đời ông (ông thọ 93 tuổi)
cộng đồng Tị Nạn CSVN có đàm tiếu một
số tin đồn không rơ chứng cứ về cuộc
đời ông.
.
Thiếu
Tá Nguyễn Đức An:
Trưởng pḥng Tiếp Vận Bộ
Chỉ Huy Thiết Giáp Binh Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa.
Ông ta không phải là cấp chỉ
huy trực tiếp của tôi và tôi chỉ biết ông ta chứ
không quen. Giữa tôi và ông
cũng không có một liên hệ nào về t́nh cảm hay giao
dịch trên phương diện công tác. Vậy mà ông luôn luôn mở rộng
ṿng tay thân ái đón lấy tôi và gia đ́nh khi chúng tôi lâm vào
cảnh khó khăn cùng cực.
Vào cuối năm 1969, tôi rời chức
vụ Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 3/3 TK về Saig̣n học
Anh Ngữ để chuẩn bị theo học khóa Dẫn
Đạo Chỉ Huy “Leadership” tại trường Thiết
Giáp Fort Knox tiểu bang Kentucky Hoa Kỳ.
Vợ và con gái đầu ḷng của
tôi cũng cùng đi, v́ trong thời gian ở đơn vị
tác chiến, bạn đường tôi chỉ là núi với
rừng. Hàng tháng chỉ ở
bên vợ con độ 2, 3 hôm thôi, thành thử tôi không muốn
mất mát thêm nữa.
Nhưng tôi lâm vào một t́nh thế
khó giải quyết, Saig̣n hoa lệ nhưng vật giá th́
làm cho người nghèo phải nhỏ lệ. Nếu phải bỏ tiền ra
thuê nhà th́ không c̣n tiền ăn, mặc dù mẹ tôi ở
Sóc Trăng cũng thường xuyên tiếp tế cơm gạo.
Một cơ may đến với
tôi, không biết ai đó đă kể cho ông ta nghe hoàn cảnh
của tôi và ông ngỏ ư cho tôi về ở trọn một
căn gác sau nhà ông trong cư xá Sĩ Quan cấp Tá gần
thành Cộng Ḥa, không lấy tiền nhà, điện nước….
Người ta thường bảo: “Ở hiền gặp lành”. Xét lại bản thân tôi, tôi chỉ
hung dữ chớ không hiền, sao lại gặp lành như
vậy.
Gia đ́nh ông cũng đông
con. Ông đang chung sống với
bà hai có một đứa con và bốn đứa con của
bà cả (đă qua đời) gồm hai trai là Việt,
Trường và hai cô con gái, cô lớn tên Hương.
Cụ bà, mẹ của bà cả ở
với bà bạn, nhà kế bên.
Bà chắt mót muối dưa, cà pháo, làm mắm tôm biếu
vợ chồng tôi. Đó là những
bát cơm “Xiếu Mẫu”.
Riêng 4 đứa con của bà cả rất
thương yêu và quư mến vợ chồng tôi và coi con tôi
như em chúng.
Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972,
chiến trường Tây Nguyên cực kỳ sôi động. Bỗng nhiên một hôm ông An gọi
tôi bảo con trai lớn của ông, anh Việt, ra trường
là Hạ Sĩ Quan Thiết Giáp muốn ra Pleiku làm việc với
tôi. Tôi bảo:
-
Sao Thiếu Tá không giữ nó ở
Bộ Chỉ Huy hay Trường Thiết Giáp; Pleiku không phải
là đất lành.
-
Tôi biết, ông ta bảo, nhưng
nó muốn ra sống với anh.
Công việc c̣n đang chờ thủ
tục giấy tờ th́ tôi lại được lệnh
về học khóa Sĩ Quan Cao Cấp ở Thủ Đức
(Saig̣n).
Thời
gian tôi đang học khóa Cao Cấp cũng là thời gian
tôi phải đau ḷng xót dạ đi lên nghĩa trang Quân
Đội Biên Ḥa để tiễn biệt cháu Việt.
Ḍng
đời lại lặng lẽ trôi đi….
Vào
những ngày cuối cùng của đất nước, của
miền Nam VNCH thân yêu, lá rụng lại về cội. Tôi trở về làng Phù Đổng,
đất tổ quê cha. Ông An
lại bảo tôi ở tại nhà ông trong Bộ Chỉ Huy
TG với hai cô con gái. Cô
Hương chắc cũng khoảng 16, 17 tuổi. Ban ngày cháu phải đi làm việc,
vậy mà phải lo chăm sóc miếng ăn chỗ ở
cho tôi.
Quần
áo trận, tôi nhờ cháu đi bỏ giặt ủi (theo
thường lệ). Nhưng
có một hôm, tôi thấy cháu đang “ủi đồ cho
tôi”. Thật nói chẳng nên lời. C̣n t́nh nào quư báu hơn.
Tôi
chưa từng làm được ǵ để đáp đền
ơn sâu nghĩa nặng của ông và gia đ́nh.
Chỉ
biết ghi ḷng tạc dạ.
-o O o-
Đại
Úy Lại Quốc Nam:
Ước vọng
của tôi khi viết thiên hồi kư này là để con cháu
đọc chơi, học theo thi sĩ Tản Đà
“Ngồi
buồn lấy giấy viết thư chơi
Viết
bức thư này gửi đến ai
Non nước
xa khởi, t́nh bỡ ngỡ
Ai tri
âm đó, nhận mà coi?”
(Thi
sĩ Tản Đà)
Không
bao giờ tôi dám nghĩ tới chuyện in ấn, v́ tôi có
phải là nhà văn đâu.
Nhưng tôi lại có sự khích lệ của người
bạn: Đại Úy Lại
Quốc Nam, nên tôi mới dám gởi bài để anh trích
đăng một phần vào Đặc San Thiết Giáp
Binh QLVNCH nhân ngày Kỷ Niệm Đại Hội Thiết
Giáp Binh Thế Giới.
Anh
Nam là người hiểu biết nhiều về tôi, có cái
nh́n rộng về thời cuộc và những biến động
chính trị. Xin nhờ anh hiệu
chính và bổ khuyết những chỗ sai lầm và quên sót
của tôi.
Sau
này, nếu ai có đọc hồi kư của tôi, xin sửa
chữa dùm những chỗ sai lầm hoặc bổ khuyết
những chỗ quên sót.
Tôi
thành thật cám ơn.
-o O o-
Vài câu chuyện về Mùa Hè Đỏ Lửa năm
1972 tại Tây Nguyên
“BB”
BB đây không phải là tên chữ viết tắt của
cô đào nguyên tử nẩy lửa Pháp quốc, Brigitte
Bardot, mà là tên của 2 vị Sĩ Quan Thiết Giáp kỳ cựu
trong binh chủng. Một ông
tên Bỉnh, một ông tên Bài.
-o
O o-
Ngược
ḍng thời gian trở về quá khứ của 4 năm về
trước, ngày tôi vừa được bổ nhiệm
làm Chi Đoàn Trưởng CĐ 2/3 Thám Thính đương
thời tăng phái cho Sư Đoàn 22 Bộ Binh của
Tướng Tư Lệnh Nguyễn Văn Hiếu.
Nhận
Chi Đoàn được 3 hôm th́ Thiếu Úy Bỉnh, chi
đội trưởng chi đội 1 (tăng phái
BTL/SĐ 22 BB tại cầu Bà Gi) đến mời hai vợ
chồng tôi ăn cơm tối, gọi là khoản đăi
Tân Chi Đoàn Trưởng. Tôi cám ơn và ngỏ lời xin
miễn cho vợ tôi v́ cái bụng chửa của bà to quá rồi. Ông Bỉnh.
-Thưa
Thiếu Úy, không được đâu, đó là truyền thống
của Kỵ Binh Thiết Giáp không thể bỏ qua
được. (ông ta đi lính Thiết Giáp từ khi
đơn vị này thành lập ở miền Bắc, thời
c̣n quân đội Pháp).
-Nếu
Thiếu Úy từ chối đưa cô đi, chúng tôi
cũng sẽ đến mời cô đi tham dự.
-Thôi
được rồi, tôi đồng ư, nhưng làm gọn
nhẹ thôi, đừng ồn ào lắm.
Khi tôi
lái xe đưa nhà tôi đến th́ thấy đằng
trước có một bán Tiểu Đội dàn chào, trang phục
chỉnh tề. Tôi xây ra sau nói
với anh tài xế:
-Chết
rồi, tôi xuống trước, anh lên đây lái đưa
vợ tôi vào sau nhé.
Trên
đường vô, có mấy anh quân cảnh ở Đại
Đội gần đó, hỏi lính Thiết Giáp.
-Bữa
này, ông nào tới thăm, mà đón rước long trọng
vậy?
-Đó
là ông Thiếu Úy Tân Chi Đoàn Trưởng.
-Thiếu
Úy mà đón trọng thể quá vậy?
-Ông ta,
Thiếu Úy, nhưng giữ chức vụ của một
ông Thiếu Tá.
Vào bàn
tiệc, Thiếu Úy Bỉnh ngỏ lời rồi giới
thiệu thức ăn. Toàn bộ
là thịt cầy (chó)…tiết canh, chả ch́a, rựa mận…củ
riềng, lá mơ…. Bên trái và trước mặt vợ tôi
là mấy đĩa thịt gà.
Ông Bỉnh hỏi:
-Thiếu
Úy có dùng được không?
-Sao lại
không? Tôi đáp.
Thật
ra, tôi chưa từng ăn thịt cầy bao giờ v́ từ
nhỏ sống theo truyền thống của gia
đ́nh. Cha tôi rất ghét những
người nào ăn thịt chó, hàng xóm qua mượn chén
đũa đi nhậu thịt cầy là ổng cho luôn.
Ông ta
tiếp, chúng tôi cũng có dọn riệng món thịt gà dành
cho cô, và nếu…. Tôi đưa đĩa cho ông ta xớt tiết
canh, đậu phọng giă, rau thơm và nhấp rượu
đế một cách ngon lành… Đó là lần đầu
tiên trong đời, tôi biết ăn thịt cầy.
Với
sự đồng ư của BTL/SĐ22/P3 tôi ở tại hậu
cứ Phú Tài, thay v́ phải ra với Chi Đoàn(-)
đang tăng phái cho Trung Đoàn 45 Bộ Binh tại Phù Mỹ.
Hàng
tháng, tôi đi phát lương cho họ. Thiếu Úy Bỉnh cho một phân
đội Thám Thính Xa M8 đi hộ tống. Tôi bảo:
-Đường
sá quá an ninh mà hộ tống làm ǵ? (v́ ở cầu Phù Ly có
Sư Đoàn Mănh Hổ của Đại Hàn do Đại
Tá Pak Chung Hy chỉ huy trấn đóng. Sau này ông ta làm Tổng Thống
Đại Hàn.
Mỗi
lần thấy xe tôi đi qua, mấy anh lính giữ cầu
bồng súng chào, v́ họ tưởng là ông Tướng, ông
Tá nào đó (Xe Jeep 2 cần câu mà có Thiết Giáp hộ tống).
Trên
đời, mấy thủa được làm vua, dù là vua cỏ. Làm vua cỏ được mấy
tháng và gần gũi với người cộng sự khoan
ḥa, có phong cách như ông Bỉnh, tôi thấy hạnh phúc,
sung sướng. Nhưng cuộc
vui nào cũng có ngày tàn. Chi
Đoàn được lệnh bàn giao hết mấy chiếc
Thám Thính Xa cổ lỗ sĩ đó để về Saigon
thành lập Chi Đoàn Thiết Kỵ theo tổ chức mới
(Chi Đoàn TQV có 15 xe M113, biến cải thành Thiết Kỵ
có 22 xe). Thêm một trở ngại
lớn nữa là cái “lon” của tôi quá nhỏ (Thiếu Úy)
mà về Trường Thiết Giáp làm Chi Đoàn Trưởng
một Chi Đoàn Thiết Kỵ mẫu th́ khó coi quá, nên cuối
cùng, Thiếu Tá Dung Thiết Đoàn Trưởng phải
đưa tôi qua coi Chi Đoàn 3/3 TQV, sẽ biến cải
tại Pleiku.
-o
O o-
Ông Bài
- Thiếu Úy Bài.
Tôi về
làm việc chừng vài tháng ǵ đó. Một hôm có Thiếu Úy Bài, chi
đội trưởng chi đội 2 từ Phù Mỹ lên
gặp tôi.
Khác với
ông Bỉnh khoan ḥa, mực thước. Ông Bài mặt mày đỏ gay,
đỏ gấc giống như đệ tử Lưu
Linh, nhưng điều tôi lấy làm ngạc nhiên là ông ta
nói chuyện rất từ tốn, mặc dù có hơi men.
-Bài
không phục ông Chi Đoàn Phó ở cách xử sự không
đúng với phong cách của cấp chỉ huy….
-Nếu
Thiếu Úy (tôi) bảo Bài cúi xuống đánh, Bài cũng xin
vâng; nhưng làm việc với ông phó th́ không. Xin Thiếu Úy giải quyết.
Mặc
dù mới về chưa được bao lâu, nhưng tôi hiểu
sự gút mắc và tính t́nh của đôi bên, nên khuyên ông ta.
-Anh cứ
về làm việc đi. Làm
trong phần trách nhiệm của anh và tuân hành lệnh của
ông Chi Đoàn Phó, không tranh luận.
Thời gian tới, nếu mẫu thuẫn đôi bên
vẫn c̣n, tôi sẽ t́m cách tháo gỡ cho.
Vài
tháng sau, ông ta theo Chi Đoàn vào Saigon biến cải, tôi qua
coi CĐ3/3 TK.
-o
O o-
Bốn
năm sau. Mùa Hè Đỏ Lửa
1972 tôi t́nh cờ gặp lại ông.
Lúc đó là Trung Úy Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn
Chi Huy Công Vụ (CHCV) của Thiết Đoàn 14 Kỵ Binh
đóng tại Kontum.
Trước
năm 1972, Mỹ - người bạn đồng minh phản
bạn, đi đêm với Cộng Sản, thả lỏng
cho các đại đơn vị quân chính quy CS Bắc Việt
tự do theo đường ṃn HCM, xâm nhập vào vùng ngă ba
biên giới Banhet (tôi có đề cập trong tập “Tết
Mậu Thân 1968 tại Kontum”).
Mùa Hè
1972 (tôi không nhớ đích xác tháng mấy) các đại
đơn vị của CS Bắc Việt có chiến xa yểm
trợ đă tràn ngập Bộ Tư Lệnh SĐ 22 BB tại
phi trường Phượng Hoàng Tân Cảnh.
Đại
Tá Thiết Giáp Lê Đức Đạt, Tư Lệnh
Sư Doàn 22 BB và Thiếu Tá Trần Khánh Dư, Thiết
Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 14 KB tử trận.
John Paul Vann,
cố vấn trưởng của QĐII, đáp trực
thăng xuống bốc anh Đại Tá cố vấn
trưởng của Sư Đoàn 22 mà không bốc Đại
Tá Đạt v́ hai bên có hiềm khích ǵ đó?
(Người mặc quần áo dân sự đứng
giữa ở hàng đầu là cố vấn John Paul Vann)
Theo lời
mấy anh phi công trực thăng VN th́ chiếc trực
thăng của John Paul Vann đi tới đâu th́ pḥng không
của VC ngưng bắn tới đó. Anh ta tự ḿnh lái lấy chiếc
trực thăng mầu trắng.
-Chiến
tranh VN bẩn thỉu là như vậy đó.
Sau khi
chiếm được Tân Cảnh và Dakto, chiến xa VC
tràn xuống bố trí trong rừng Ngô Trang, nam Vơ Định
và bắc Kontum, khoảng 20 km, chỉ cần một đêm
là tấn công vào Kontum.
Trước
áp lực đó, Đại Tá Lư Ṭng Bá, Tư Lệnh Sư
Đoàn 23 Bộ Binh phải triệt thoái về trại gà,
nam Kontum độ 7 km.
Quốc
Lộ 14 Kontum-Pleiku bị gián đoạn v́ VC đă chiếm
lĩnh ngọn núi Chư Pao, yết hầu ra vào Kontum. Chủ trương của VC là
chiếm Thị Xă Kontum có dân chúng.
Thời
gian đó, chỉ có di tản bằng trực thăng hoặc
có một số người mạo hiểm đi theo đường từ Phương Ḥa ra
Plei Te (phía Tây QL14, đường đất, cũng không bảo
đảm ǵ).
Trước
t́nh h́nh khẩn trương và nguy cấp đó, Trung Tá Nguyễn
Đức Dung, Tư Lệnh LĐ2KB bay đi thanh sát, bao
vùng khu vực bắc Kontum. Tôi
xin tháp tùng lên Kontum để bốc cha mẹ vợ
tôi. Khi gần đến, ông
ta bảo:
-Qua thả
em xuống Thiết Đoàn 14.
Em có 30 phút đi lo công việc. Bao vùng xong, qua trở lại
đón. Không được trễ.
Chiếc
trực thăng vừa là là, tôi chưa kịp nhẩy xuống
th́ địch đă “chào mừng” tôi bằng một tràng
mưa pháo. Trực thăng bốc
lên ngay. Tôi chạy vào hầm
chỉ huy của Thiết Đoàn 14 KB. H́nh ảnh đập vào mắt
tôi trước tiên là bà Thiếu Tá Dư đang ngồi
khóc v́ được tin chồng tử trận trên Tân Cảnh. Tôi vội vă bước tới
chia buồn và an ủi bà. Quay
ra tôi gặp Trung Úy Bài.
-Anh cho
tôi mượn chiếc xe Jeep đi xuống phố ngay.
-Xe
đậu ngoài băi, nhưng nó đang pháo kích mạnh, không
tài xế nào dám ra lái. Xin Đại
Úy chờ.
-Việc
tôi khẩn cấp, tôi không thể chờ nó ngưng pháo kích
được. Anh cho tôi
mượn ch́a khóa và chỉ chiếc xe nào, tôi lái
đi. Đột nhiên anh Bài
đổi cách xưng hô:
-Đang
nguy hiểm như thế này, “ông Thầy” không thể
đi một ḿnh được.
Để Bài lái cho ông Thầy đi.
-Đây
là việc riêng của tôi, mà anh c̣n có trách nhiệm ở
đây.
-Dứt
khoát là không, ông ta bảo.
Tôi
không tranh căi nữa. Ra tới
băi, chỉ c̣n vài trái pháo ở cuối phi trường.
Đến
nhà, cha mẹ vợ tôi bận ra nghĩa trang tiễn
đưa đứa cháu gái vừa bị VC pháo kích chết. Chúng tôi lại chạy ra nghĩa
trang. Ra đó, th́ mọi
người đều về.
Quay trở lại nhà th́ kịp lúc ông bà vừa bước
vô. Tôi bảo:
-Ba má
theo con đi ngay về Pleiku.
Miệng nói tay tôi kéo bà đi với túi hành lư. Cả hai đều hốt hoảng.
Ra tới
Thiết Đoàn 14 th́ trễ mất hơn 10 phút. Chờ măi không thấy trực
thăng đâu, hay ông ta đă bỏ về rồi. Bỗng nhiên trực thăng xuất
hiện, rà xuống chỗ chúng tôi.
Anh xạ thủ đưa ông bà lên. Dịch lại pháo kích tiễn
chân. Tôi chỉ kịp níu lấy
sàn trực thăng và nó bốc lên….
Tối
hôm đó chiến xa VC từ Ngô Trang tràn xuống uy hiếp
Bệnh Viện 2 Dă Chiến, phía Bắc BTL/BK24 cũ,
TĐ 221 PB(?) và các Đại Đội Thám Kích. Lực lượng trú pḥng đă
anh dung chiến đấu. Hai
bên giằng co nhau cả đêm (Tôi không rơ diễn tiến
trận đánh và các đơn vị bạn tham dự).
Ngay
đêm đó John Paul Vann, cố vấn trưởng của
QĐII cho lệnh phi cơ C130(?) dùng hồng ngoại tuyến
tiêu diệt trọn chiến xa địch (32 – 36 chiếc?). Số c̣n lại triệt
thoái. Cùng lúc đó SĐ23 BB của
Đại Tá Lư Ṭng Bá từ trại gà phản công lên tái chiếm
và làm chủ được thành phố.
Phía Nam, Trung Tá Dung Tư Lệnh LĐ2KB xử dụng
Chi Đoàn 1/3 Chiến Xa và BĐQ tăng phái, khai thông
được QL14 và tái chiếm núi Chư Pao.
Vài ngày
sau đó John Paul Vann lái trực thăng ngang qua sườn
phía Tây của Chư Pao th́ phi cơ phát nổ. Cơ quan MACV (Mỹ) báo cáo là do
pḥng không của VC bắn rớt?
Sau này
tôi vào tù ở trại Nam Hà, tôi có gặp Trung Tá Thời, Tiểu
Đoàn Trưởng BĐQ, ông ta bảo: Lúc đó Tiểu Đoàn “Moi”
đang kiểm soát khu vực chỗ chiếc trực
thăng rớt, VC nào bắn!!!
Đám
tang của ông Vann, có một thiếu phụ VN rất trẻ,
mặc đồ tang đến tham dự. Báo chí Saigon có đăng h́nh và bảo: Đó là cháu gái của Đại
Tá Lư Ṭng Bá và là hôn thê của ông John Paul Vann. Họ đưa câu hỏi: Có phải ông Vann chết v́ đi
ngược lại với chính sách của Mỹ v́ t́nh
riêng mà cứu Kontum? Việc
này tùy các bậc cao kiến và các Sử gia. Tôi không biết đúng hay sai.
-o O o-
“Chuyện khó tin, nhưng có thật”
(Lệnh bao súng khi đi hành quân)
Đây
không phải là chuyện tếu mà là chuyện có thật
100% đă xẩy ra trong mùa Hè Đỏ Lửa 1972 tại
Tây Nguyên.
(Tôi
không phải là nhà văn nên viết lách thiếu mạch lạc
và khúc triết. Nhưng trên
cương vị là người ghi chép, tôi nói lên rất
trung thực mọi sự kiện xẩy ra, kể cả
những lời đối thoại kém thanh bai.)
-o
O o-
Tôi
đang ngồi tại văn pḥng th́ có điện thoại
của Đại Đức Tuyển Úy Trưởng Tuyên
Úy Phật Giáo QĐII.
-Đại Úy có bận lắm
không? Tôi muốn đến
thăm.
-Rất vinh hạnh đón
Đại Đức.
Trong
khi chờ đợi, tôi nghĩ chắc ngoài Sở Tuyên Úy
cần nhiên liệu chăng?
Đối diện với tôi là một thầy tu khoan
ḥa, hiền hậu, nói năng từ tốn, mực thước.
-Tôi có một việc cần
Đại Úy giúp cho.
-Đại Đức nói
đi. Tôi sẽ làm mọi việc
nếu khả năng cho phép.
-Bên Nha Tuyên Úy Phật Giáo có
một thầy Sa Di tên Lê Văn Phê, là đệ tử hầu
cận của Thượng Tọa Thích Tâm Giác, Tổng Nha
Tuyên Úy Trưởng/Quân Lực VNCH.
Anh ta đánh lính Cảnh Sát sao đó bị bắt
đưa vào Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Khi Thượng Tọa Tâm Giác biết
th́ họ đă đưa ra đây, và hiện đang làm việc
với Đại Úy. Trong thời
gian chờ đợi Thượng Tọa can thiệp th́
chúng tôi sợ anh ta chung đụng và đi chơi nhiều
với lính tráng sẽ hỏng đường tu tŕ của
anh ta.
-Đại Úy có thể giúp
để “ǵn giữ” anh ta được không?
-Thưa Đại Đức,
tôi hiểu và tôi sẽ làm được việc này bằng
cách giữ anh ta đi sát cánh với tôi. Tôi gọi ông Thượng Sĩ
Thường Vụ đưa anh ta lên tŕnh diện:
-Kể từ hôm nay, tôi chọn
anh làm cận vệ. Tôi sẽ
bảo ông Thượng Sĩ Thường Vụ cho anh một
pḥng riêng. Khi tôi gọi là phải
đi ngay. Anh phải sẵn
sàng súng ống, áo giáp, mũ sắt 2 lớp, 3 ngày
lương khô và bi đông đầy nước….
-Thưa Đại Úy. Đại Úy an tâm, em làm cận vệ
th́ chẳng có đứa nào có thể xáp gần Đại
Úy cách 3 mét được (nghe nói, anh ta có đệ tứ
đẳng huyền đai Thái Cực Đạo?).
-Anh Phê này, VC nó tấn công
tôi từ đằng xa, anh chú trọng điểm ấy
hơn….
Sau
cuộc hành quân của Lữ Đoàn II Kỵ Binh giải
toả QL14B Pleiku-Kontum bắt tay với SĐ23 BB, Trung Tướng
Nguyễn Văn Toàn Tư Lệnh Quân Đoàn II & QK II đă
đáp trực thăng xuống tại cầu Dakbla gắn
cấp bậc Đại Tá cho Trung Tá Nguyễn Đức
Dung, Tư Lệnh LĐ2KB, và cấp bậc Đại Úy
cho Trung Úy Trương Gia Lương, Chi Đoàn Trưởng
Chi Đoàn 1/3 Chiến Xa, người chỉ huy lực
lượng giải tỏa QL14B.
Giai đoạn kế tiếp
là cuộc hành quân bảo vệ QL và tranh nhau làm chủ.
BTL/QĐII tổ chức
BCH Tiền Phương do Tướng Trần Văn Hai,
Tư Lệnh Phó chỉ huy, đóng ở phía Đông QL14,
phía Bắc Biển Hồ độ 7 km?.
Lúc ấy, tôi là Chi Đoàn
Trưởng Chỉ Huy Công Vụ, vừa đảm nhận
đủ thứ chức vụ linh tinh. Một hôm tôi lên căn cứ này
để gặp Đại Tá Dung.
Khi đi ngang qua chi đội Thám Thính V100 tôi thấy
các súng đại liên 30, 50 đều bao lại hết. Tôi gọi Thượng Sĩ I
Nguyễn Văn Ức lại hỏi:
-Bộ mấy anh tưởng
đây là ngă ba rạp hát Diệp Kính sao?
-Thưa Đại Úy,
đó là lệnh của Thiếu Tá Trưởng Pḥng 3
BTL/LĐ ông ta bảo:
-V́ có bộ binh nằm
đường, khi đi hộ tống Pháo Binh chỉ cần
có sự hiện diện của TG, VC nó sợ là đủ. Nếu các anh bắn, e chết bộ
binh. Tôi cười:
-Tôi không nghĩ VC nó sợ
TG, nhứt là mấy xe TG chạy bánh này.
Rồi
một hôm, Đại Tá Dung gọi tôi nói: Em ra lệnh cho Trung Úy Chài (trưởng
ban quân xa) ngày mai đưa 2 chiếc chiến xa cứu nạn
M578 lên Plei Khoy Boy kéo hết mấy xe TG cháy nằm trên
đường thả xuống hố hoặc chỗ nào
khuất mắt của xe dân sự qua lại.
-Thưa Đại Tá, 2 chiếc
M578 mới lănh ở Qui Nhơn về chưa thiết trí kịp
máy truyền tin và súng ống.
-Tạm trang bị súng,
đành vậy thôi, ông ta nói.
-Ngày mai QL14 cần phải
được khai thông để báo cáo về Saigon.
-Thưa Đại Tá, ngày
mai, tôi sẽ đi. Đại
Tá Dung nói:
-Em không cần phải
đi, để ông Chài đi được rồi.
-Không sao đâu Đại
Tá, ông Chài không quen ở trận địa và địa thế
ở đó….
Tôi dắt
hai chiếc xe cứu nạn lên, đậu ngoài căn cứ
rồi vào trong bảo Thượng Sĩ Ức.
-Anh vào tháo hết bao súng
ra. Ông Thiếu Tá Trưởng
Pḥng 3 chạy đến:
-Đại Úy. Đó là lệnh của Đại
Tá.
-Thiếu Tá cứ vào tŕnh lại
với Đại Tá. Tôi cho lệnh
tháo ra.
Đoàn
xe tôi trực chỉ lến hướng Bắc, vừa qua
khỏi mả VC(*), về phía Đông là
ngọn núi Chư Pong và Chư Kon Krang th́ địch từ
phía Tây QL bắn B40 và B41 ra mấy quả, nhưng đều
trượt. Tôi gọi về
BCH/HQ, ông Thiếu Tá Trưởng Pḥng 3 trả lời:
-Bộ Binh bảo đó chỉ
là pháo kích (có nghĩa là bắn từ xa). Tôi bảo:
-Ở đây, tôi thấy rơ
là đạn đạo thẳng và cả khói vàng bốc
lên cách tôi khoảng 100 mét.
Th́ ra Bộ
Binh làm chủ từ đường lộ vào trong khoảng
20 mét. Trong kia là VC. Không bên nào dám tiến lên v́ bị
lộ diện. Ở đó là
một vùng đồi trống trải. Đi thêm 2 km nữa th́ đến
làng Plei Khoy Boy. Đó là một
ngọn đồi nhỏ tương đối cao
hơn. Đây là một chiến
trường quen thuộc của tôi vào năm 1969. Sau khi kéo mấy xác chiến xa và
M113 cháy nằm ngổn ngang trên đường, đưa
tất cả vào mép rừng th́ 1 chiến xa cứu nạn
M578 bị bất động (h́nh như bị bể ống
dầu máy). Như vậy bận
về chúng tôi sẽ di chuyển rất chậm v́ 1 kéo
1. Tôi gọi BCH/HQ bảo họ
làm viêc với BB giữ đường. Cuối cùng Đại Tá Thông,
Trung Đoàn Trưởng BB lên gặp tôi yêu cầu đừng
tác xa. Tôi bảo: Nếu tôi
không bị tấn công th́ tác xa làm ǵ? Ông ta gọi về BCH/HQ nói sao
đó. Ông Thiếu Tá Trưởng
Pḥng 3 lại gọi lên: Nếu
anh muốn, ở đây sẽ đưa trực thăng
lên đón anh về. Tôi trả
lời: Lính tôi nó đi
đường bộ, tôi không đi trực thăng. Tôi ra lệnh 2 chiếc chiến
xa cứu nạn kéo nhau đi trước; khoảng 500 mét
tới xe tôi rồi 2 chiếc V100 theo sau, không cho đóng
khung hộ tống v́ làm như vậy nó c̣n chú trọng vào
cái “bia” hơn.
Khi đi ngang qua đó, 2 chiếc
M578 bị bắn. Tôi thấy
khói đen bốc ra từ trong xe nhưng nó vẫn tiếp
tục được. Tới
phiên tôi, tôi bảo anh tài xế Lâm Văn Chỉnh là anh cứ
giữ tốc lực tối đa, nó bắn kệ nó. Kềm tay lái đừng để
xe lật. Xây qua sau “cận vệ
sa di Lê Văn Phê tôi nói: Anh chuẩn bị bắn trả và
sẵn sàng nhẩy xuống đường. Quả nhiên ,
ngang qua đó th́ một tràng thượng liên liên tục bốp
bốp…vào xe. Xe chỉ chạy
thêm được 10 mét. Tôi bắn
trả VC bằng cây AK47 bá xếp và gọi BCH/HQ báo:
-Xe tôi bị bắn, nằm
tại chỗ. Ông Thiếu Tá
nói:
-Anh cố gắng lết về,
đừng bắn trả!!!. Tôi hét to trong máy:
-Anh im cái mồm đi. Lết với lết….
Tôi ném ống
nói xuống rồi 3 đứa nhẩy ra 3 góc để yểm
trợ nhau th́ 2 chiếc V100 cũng vừa tới dùng đại
liên 50 bắn vào mục tiêu. Tôi xem lại thấy 3 cái bánh bên dưới và cái
bánh “secour” đều thủng. Bực quá, tôi muốn bỏ xe lại
đó, nhưng nghĩ lại mất công người khác,
bèn lên 1 chiếc V100 bắn cầm chừng và liên tục
để VC không ngóc đầu lên được, cho xe kia
tới kéo xe tôi.
Về
đến BCH/HQ Đại Tá Dung ra đón tôi:
-Qua đă khiển trách bên Bộ
Binh rồi.
-Tôi cám ơn Đại Tá,
nhưng quá trễ, may mà tôi c̣n về được
đây. Ông ta biết tôi nổi
điên, bèn lật đật gọi anh tài xế nói: Anh lấy xe tôi đưa Đại
Úy Đông về.
Về đến nhà, vợ
tôi mở cửa ra đón, thấy anh tài xế đi ṿng
qua mở cửa cánh gà đưa tôi xuống, nàng bảo:
-Xe anh đâu mà anh đi xe của
Đại Tá Dung ngon vậy:
-Xe anh hư rồi và im
luôn; nhưng rồi đâu có dấu được ai.
Một tiếng đồng
hồ sau có 2 vị khách không hẹn mà cứ đến. Đó là linh mục Trung Tá Lê Thành
Ánh, Tuyên Úy Trưởng Tuyên Úy Công Giáo/QĐII và Đại
Đức (chắc cũng Trung Tá) Tuyên Úy Trưởng Phật
Giáo. Cha Ánh bảo: Chúa che chở anh. Đại Đức bảo: Phật độ tŕ cho Đại
Úy. Quả thật, có Chúa che chở
và Phật độ tŕ nếu không, tại sao cả 3
người đều nguyên vẹn, không trầy một miếng
da.
Trong khi đang tṛ chuyện
th́ gia đ́nh sĩ quan, binh sĩ kéo nhau tới ban quân xa xem
chiếc xe Jeep thọ nạn.
Nó bị cả thẩy 11 viên (3 trong máy, 1 bể c̣i hụ,
1 bể gương soi mặt, 1 đi qua lớp bao cát
dưới chân xuyên thủng đế giầy, 1 xuyên ghế
dựa lưng và 4 viên vào bánh xe.
Thằng VC bắn tôi quả là tay thiện xa, xe tôi chạy
100 km/giờ mà nó đưa hết chừng đó đạn
vào.
Hôm sau, tài xế Lâm Văn
Chỉnh, tâm sự với vợ tôi:
-Cô ơi! Hôm qua tụi em sợ
“xanh giái”; đạn VC bắn như mưa mà Đại Úy
vẫn coi như không.
Là con người ai cũng
sợ chết. Nhưng trong
t́nh trạng cấp bách như vậy, người ta không
có th́ giờ để sợ mà phản ứng tự nhiên
là tự vệ (bắn trả) đến trước
cơn sợ. Tôi nghĩ đó
cũng là bản chất tự nhiên của mọi người
lính chiến.
Đúng hay không, tùy từng
người, phải không?
Cuộc di tản đẫm máu
trên Liên Tỉnh Lộ 7B
“Pleiku - Phú Bổn - Tuy Ḥa”
-o
O o-
Thiên hồi kư này chỉ nói
lên trong phạm vị hạn hẹp về hoạt động
của Chi Đoàn 3/21 Chiến Xa và Liên Đoàn 7 Biệt
Động Quân trên con đường di tản đẫm
máu từ Pleiku - Phú Bổn đến Tuy Ḥa.
Tôi không biết ǵ về diễn
biến trên chiến trường phía sau (đèo Tona, Phú Bổn)
của Bộ Tư Lệnh Chiến Đoàn II di tản nên
không thể góp ư kiến phân tách hay b́nh luận về sự
kiện lịch sử này.
Điều duy nhất tôi
muốn nói lên là sự thật rất đau ḷng:
“Chúng tôi (Chi Đoàn 3/21 CX
M48 và Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân là cái bia sống
cho Sư Đoàn 320 CSBV trên băi chiến trường trải
dài từ bờ sông Ba đến chân đèo Tona (Phú Bồn).”
-o
O o-
Tôi
đang đi kiểm soát ṿng đai pḥng thủ th́ Trung Úy
Đ́nh, Chi Đoàn Phó ra báo có điện thoại của
Đại Tá Đồng, Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ
Binh. Tôi vào liên lạc, ông ta bảo:
-11 giờ trưa nay tôi
đi Phan Thiết thăm mấy Chi Đoàn dưới
đó, chú sửa soạn theo tôi.
Tôi đă báo với ông Thiết Đoàn Trưởng
chú rồi. Tôi ngạc nhiên lắm. Việc ông ta đi thanh sát các Chi
Đoàn th́ đưa mấy ông Trưởng Pḥng liên hệ
theo, tôi không dính líu ǵ cả.
Tôi gọi Trung Tá Vinh, Thiết
Đoàn Trưởng của tôi và bầy tỏ ư kiến
như vậy. Trung Tá Vinh bảo: Tôi cũng nghĩ thế, nhưng
Đại Tá đă bảo th́ anh cứ đi.
Máy bay chuẩn bị
đáp xuống phi trường Liên Khương để
thả anh Sĩ Quan Tùy Viên của Tướng Sang, Tư Lệnh
Sư Đoàn 6 Không Quân xuống, ông ta đổi ư:
-Hay là chú xuống Đà Lạt
đi, xuống Phan Thiết làm ǵ hôi mùi nước mắm
lắm. Chú có quen với ông Tỉnh
Trưởng Đà Lạt xuống đó mượn xe, chiều
tôi quay về đây ḿnh đi thăm Đà Lạt chơi.
Xế chiều ông ta mới
trở về và nói:
-Bây giờ trễ rồi,
không ghé Đà Lạt được, đi về thôi.
Máy bay trực chỉ
Pleiku. Khi gần ngang Ban Mê Thuột
phi công bảo không đủ nhiên liệu về Pleiku, cần
phải ghé phi trường tiếp tế xăng…. Trời
đă chạng vạng tối, phi trường vắng tanh
(Phi trường L19 trong thành phố BMT). Chỗ kho xăng chỉ có anh lính
gác mà không có thủ kho. Phải
chờ anh ta gọi. Tôi nói với
Đại Tá Đồng:
-Để tôi gọi Đại
Tá Luật cho xe ra đón Đại Tá về nghỉ tạm,
chờ đổ xăng xong ta về.
Khi xe
đến đón, ông ta bảo:
-Chú cứ vào chơi với
ông Luật, tôi ở đây.
-Đại Tá ở đây
không tiện đâu.
-Ta bảo mà. Chú cứ đi đi.
Tôi biết
ông ta với ông Luật không hợp nhau nên thôi. Vào gặp ông Luật, lâu ngày gặp
nhau, nhưng cũng không có thời giờ hàn huyên ấm lạnh. Ông Luật cho biết hiện Ban
Mê Thuột (BMT) đang bị áp lực nặng nề của
3 Sư Đoàn chính quy Bắc Việt, trong đó có Sư
Đoàn 320 và một đơn vị mang bí số F86? (tôi
quên rồi) do sự chỉ huy trực tiếp của mặt
trận B3.
-Anh có xin Bộ Tư Lệnh
QĐII tăng cường 1 Chi Đoàn Chiến Xa M48, nếu
được em xuống đây th́ tốt quá.
Song song với t́nh h́nh
đó, VC đưa Sư Đoàn F10 tăng cường
Trung Đoàn 95B để cắt đứt QL19 (Pleiku-Qui
Nhơn). Trung Đoàn 95B là một
Trung Đoàn chuyên về giao thông chiến. Địa bàn hoạt động
thường xuyên là ngă ba Châu Khê (phía Đông Suối Đôi
khoản 7 km) đến đèo An Khê, trọng điểm
là đèo Mang Yang.
Sau đó VC hăm dọa
Kontum để Tướng Phú (Tư Lệnh QĐII) chuyển
hướng về đó.
Vào đêm 9 rạng ngày 10
tháng 3 năm 1975 VC tấn công Ban Mê Thuột, tràn ngập Tiểu
Khu, dinh Tỉnh Trưởng và Trung Tâm HQ Bộ Tư Lệnh
SĐ23 BB. Con trai út của ông
là Nguyễn Trọng Linh chết trong biến cố này.
Lúc đó Chi Đoàn tôi đang
tăng phái cho Trung Đoàn 44 BB (do Trung Tá Ngô Văn Xuân chỉ
huy) trấn đóng căn cứ 801 để ngăn chận
chiến xa địch từ hướng Pleime.
Tướng Phú điều
động Liên Đoàn 2 BĐQ do Trung Tá Dậu chỉ huy?
xuống giải cứu BMT. Cả Trung Tá Ngô Văn Xuân và
tôi đều nghĩ: giá Quân Đoàn đưa Trung Đoàn
44 về cứu BMT th́ hiệu quả hơn v́ hậu cứ
và trại gia binh của Trung Đoàn này ở đó, họ
sẽ tử chiến với VC để cứu gia
đ́nh, vợ con họ. Sau
đó Liên Đoàn 7 BĐQ do Đại Tá Lê Kim Tây chỉ huy
vào thay thế cho Trung Đoàn 44 BB.
Ban Mê Thuột thất thủ,
QL19 (Pleiku-Qui Nhơn) bị khóa chặt, tức lá chắn cạnh
sườn phía Nam của ta bị bể, huyết lộ
phía Đông bị nghẽn.
Mặt trận B3 của VC
điều động các đại đơn vị cấp
Sư Đoàn tiến quân theo hướng tây nam từ Pleime
Đức Cơ và phía bắc từ Dakto, Tân Cảnh tràn xuống
uy hiếp Kontum để không chế và cô lập Pleiku, thủ
phủ của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II.
Trước t́nh h́nh nghiêm trọng
và khẩn cấp này BTL/QĐII ban hành lệnh di tản gia
đ́nh binh sĩ bằng đường không vận và
đường bộ.
Theo kinh nghiệm của tôi
vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, việc di tản bằng
cầu không vận chỉ giải quyết được
một phần nhỏ v́ không đáp ứng được
hết nhu cầu về địa điểm đến
và hoàn cảnh từng gia đ́nh.
Năm 1972, tôi là người trách nhiệm việc di tản
cho Lữ Đoàn II KB về đường không vận,
tương đối có hiệu quả nhờ tôi có quen biết
nhiều với các Sĩ Quan của Không Đoàn 72 chiến
thuật thuộc Sư Đoàn 6 Không Quân. Lần này, tôi bận trách nhiệm
hành quân. Việc di tản bằng
cầu không vận và đường bộ do BCH/TĐ 21CX
đảm trách, các Chi Đoàn tự túc xử dụng các
Thiết Xa Vận Tải M548 và GMC cơ hữu của
ḿnh. Chính Trung Tá Nguyễn Cung
Vinh, Thiết Đoàn Trưởng và Thiếu Tá Nguyễn
Chinh Phu, Thiết Đoàn Phó cũng tận t́nh lo lắng cho
gia đ́nh tôi.
Hàng ngày máy bay lên xuống
bên hông nhà tôi trong phi trường Holloway (Pleiku), nhưng
chúng tôi không đáp ứng được v́ có hoàn cảnh
riêng: Vợ tôi mới sinh con chưa đầy 3 tuần lễ,
chưa đi đứng vững không thể cưu mang 4
đứa nhỏ vào Saigon mà không có thân nhân ở đó; vả
lại chúng tôi cũng không có tiền.
Về cuộc di tản gia
đ́nh binh sĩ của Chi Đoàn bằng đường
bộ, phải nói Trung Úy Ông Thoại Đ́nh, Chi Đoàn Phó
đă chu toàn nhiệm vụ ḿnh một cách đáng khen. Ông đóng vai tṛ nội trợ của
tôi và người mẹ của Chi Đoàn một cách hoàn hảo. Ông lo cho tất cả gia đ́nh
binh sĩ lên hết trên 4 chiếc Thiết Xa Vận Tải
M548 và 2 chiếc GMC đàng hoàng, chu đáo. Chúng tôi chỉ bỏ lại chiếc
cứu xa hạng nặng M88 (65 tấn) v́ nó là con rồng uống
xăng (cứ 100 km hoặc 2 giờ hoạt động nó
ngốn hết 400 lít xăng, vả lại nó không thể
chạy suốt ngày đêm được.
Xế trưa ngày 15 tháng 3
năm 1975, tôi về hậu cứ Pleiku (trong phi trường
Holloway) để duyệt lại tiến tŕnh công tác di tản
cho gia đ́nh binh sĩ của Chi Đoàn và cho lệnh tiêu hủy
hết mọi văn kiện hồ sơ, đặc lệnh
truyền tin, máy truyền tin cố định…. Tôi gặp Đại Tá Đồng,
Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 KB.
Ông cho biết Quân Đoàn II ban hành lệnh triệt
thoái.
-o
O o-
Sáng ngày 15 tháng 3 năm 1975,
Chi Đoàn tôi cùng với Liên Đoàn 7 BĐQ đang từ
căn cứ 801 để án ngữ hướng Pleime
được lệnh rút về chân núi Hàm Rồng để
chuẩn bị cuộc di tản.
Buổi chiều Chuẩn
Tướng Lê Văn Tất, CHT/BĐQ/QKII đáp trực
thăng xuống gặp Đại Tá Lê Kim Tây, LĐT và tôi
để ban hành lệnh. Ông
ta bảo:
-Các anh có 72 tiếng đồng
hồ để đi từ đây về tới Tuy Ḥa
theo liên tỉnh lô 7B/
-Ngày mai có 1 Đại Đội
Vận Tải sẽ vào bốc 2 Tiểu Đoàn của
LĐ7 BĐQ tại Chư Kara, phía Tây Nam Pleiku. Hai Tiểu
Đoàn này có nhiệm vụ án ngữ đèo Thanh B́nh để
chận đứng đường tiến quân của
địch từ phía Đức Cơ.
Khi Tướng Tất ra về,
tôi nói với Đại Tá Tây:
-Theo tôi nghĩ, Đại
Tá nên có kế hoạch “thu xếp” cho 2 Tiểu Đoàn
này. V́ theo kinh nghiệm của
cuộc di tản chiến thuật năm 1972, tôi không tin là
ngày mai Đại Đội Vận Tải sẽ bốc
chúng để tiếp tục di chuyển theo chúng ta.
Điều
tôi ước đoán rất đúng, v́ ngày mai 2 Tiểu
Đoàn này phải lội bộ.
Sáng ngày 16 tháng 3 năm 1975,
Đại Tá Tây dắt 12 chiếc xe Jeep trang bị hỏa
tiễn TOW cùng với 2 Đại Đội(?) hộ tống
đi trước. Chi Đoàn
tôi cơng tối đa số c̣n lại. Trung Tá Phúc, Liên Đoàn Phó ngồi
xe tôi. Ông này nguyên trước kia
học cùng với tôi ở trường Phan Thanh Giản (Cần
Thơ) sau tôi mấy lớp.
Bây giờ tuy cấp bậc ông ta lớn hơn tôi,
nhưng lúc nào cũng tỏ ra kính nể.
Từ sáng sớm, Chi
Đoàn đă đậu hàng dọc bên lề đường. Chiếc M113 chở vợ con tôi
đậu ngay trước mặt chiến xa chỉ huy.
Đoàn người di tản
từ Kontum, Pleiku tràn ngập cả mặt đường. Đủ loại phương tiện,
nhưng 90% là đi bộ. Họ
bồng bế con thơ, tay xách hành lư nặng nề, tất
cả ra đi trong sự kinh hoàng, sợ hăi….
Tôi nh́n xuống….Một bài
toán làm bể cái đầu tôi: Làm sao những người
này có thể đi bộ tới Tuy Ḥa xa xôi gần 200 km
đường rừng với suối sông ngăn trở. Tôi chợt nh́n thấy một h́nh
ảnh làm se thắt tim tôi: Một
người đàn bà, tay trái ẵm con c̣n đỏ hỏn
nằm quấn trong chăn, tay kia xách hành lư và dẫn theo một
đứa nhỏ khoảng 5, 7 tuổi ǵ đó. Tôi gọi chị ta lại hỏi:
-Chồng chi đâu? Anh ta
làm ǵ? Sao không lo cho chi quá giang
xe nào đó.
-Chồng em là lính BĐQ,
không biết bây giờ ở đâu, cũng không đi nhờ
xe nào được. Xin Thiếu Tá cho em lên xe để cứu
con em.
-Tôi không thể cho chị
đi được, v́ nếu cho lên xe, đám đông sẽ
trèo lên theo.
Chị
ta khóc. Tôi bảo:
-Thôi được rồi,
tôi đồng ư, với điều kiện là chị phải
vào ngồi trong pháo tháp, không được ra ngoài. Khi thuận tiện, tôi sẽ gọi
chị qua xe vận tải. Nếu
đồng ư, tôi cho đi. Chị
ta gật đầu.
-Bây giờ chị vào trong bụi
cây kia, lát nữa tôi sẽ vào đón…
Đoàn
lữ hành di chuyển rất chậm, dĩ nhiên. Đến xế chiều th́ Chi
Đoàn di chuyển dưới chân một đường
đèo quanh co, nh́n lên trên núi trùng trùng điệp điệp
nhuộm cả một rừng mầu tím hoa sim. Tôi bấm máy nói đùa: Ngày xưa, khi tôi mới vào đời
lính, Cheo Reo chào mừng tôi bằng rừng hoa tím, giờ
cũng rừng hoa tím này tiễn chân tôi đi. Chắc vợ tôi nghe được,
sẽ băo:
-Cái anh này thiệt là. Sắp chết đến nơi,
vẫn c̣n máu lăng mạn.
Chiều
hôm ấy, khi đến xă Phú Bổn (Cheo Reo), tôi cho xe vợ
con tôi vào nhà thờ tạm trú.
Khi xe tôi vào cổng, cha Sơn (Cha phó) ra dấu dẫn
tôi vào. Tôi chỉ cái cổng và
chiếc xe tôi. Cha Sơn bảo: Cứ vào đi, giờ này mà Thiếu
Tá c̣n sợ sập cổng nhà thờ sao? Tới nhà thờ, tôi nghe vợ
tôi bảo Bằng Phong nó ngáp ngáp, sợ hết thở. Tối đó cha xứ Phạm
Thiên Trường làm lễ rửa tội cho cháu và ông Trung
Sĩ I Nguyễn Văn Thiệu là bố đỡ đầu.
Đêm hôm ấy, đoàn xe
vận chuyển gia đ́nh binh sĩ của Chi Đoàn 3/21
CX gồm 4 Thiết Xa vận tải M548 và 2 GMC cộng với
chiếc M113 chở gia đ́nh tôi bố trí trong khu vực
nhà thờ do Trung Úy Đ́nh, Chi Đoàn Phó chỉ huy (chiếc
cứu nạn xa hạng nặng M88 không đi theo
được v́ không thể hoạt động xa như
vậy).
Chi Đoàn lại tiếp tục
di chuyển tới một ngọn đồi con gần bờ
sông Ba? bố trị tạm tại đó. Trời đă chạng vạng tối,
Trung Tá Phúc bảo: Anh Đông,
Đại Tá Tây muốn nói với anh là cố gắng qua
đèo ngay trong đêm nay để gặp ổng. Tôi trả lời:
-Không được
đâu, anh Phúc, bây giờ đă gần tối mà con đèo
này rất quanh co hiểm trở và rất nguy hiểm nếu
bị phục kích (khi xưa tôi đă từng đi với
Trung Tá Ngô Hán Đồng (cựu Tỉnh Trưởng) qua
đây, nên biết rơ. Hơn nữa,
ngày hôm nay, chiến xa đă hoạt động liên tục
12 tiếng đồng hồ, không thể tiếp tục
được.
Đang
nói, tôi nghe tiếng tách và thấy bóng vật ǵ trên cao. Cả hai thụp xuống pháo tháp
th́ một trái lựu đạn nổ. Không ai bị ǵ. Không hiểu sao VC nó len vào
được ṿng đai BĐQ mà vô gần xe chỉ
huy. Tôi đùa với Trung Tá
Phúc: Nói 72 tiếng mà mới 12
tiếng đă đánh rồi.
Vậy là hai bên bắn nhau gần 20 phút mới im tiếng
súng.
Từ trong pháo tháp, chị
vợ lính BĐQ ḅ ra, chấp tay xá tôi:
-Em lạy Thiếu Tá, em cảm
ơn Thiếu Tá, nhưng em không dám đi chung xe Thiếu Tá
nữa, xin Thiếu Ta cho em đi xe khác.
Tôi đâu có nhớ tới
chị ta. Không chừng mẹ
con “tè” trong chiến xa cũng nên..
Đêm đó, tôi cho từng
xe một vào kho Quân Tiếp Vụ gần đó cho lính lấy
thêm thực phẩm, nhứt là bên BĐQ.
Tôi xuống xe tay cầm
M18, tay xách máy PRC25 đi vào nhà thờ vợ con tôi tạm
trú. Tôi ước tính sai khoảng
cách và cứ theo thói quen không tốt là đi đơn độc
một ḿnh không có cận vệ.
Và lại trên chiến xa vỏn vẹn có 4 người,
nếu lấy cận vệ th́ thiếu người xử
dụng xe.
Vào tới nhà thờ
thăm nom vợ con và thảo luận ít điều với
quư cha ở đó rồi tôi trở ra xe. Đại khái, tôi cương quyết
từ chối kéo dùm chiếc xe du lịch và khuyến cáo mọi
người ở đó phải tuyệt đối lên Thiết
Xa Vận Tải M548.
Sau khi tôi rời đó th́
Trung Úy Đ́nh, Chi Đoàn Phó, ngoài nhiệm vụ bảo vệ
an ninh, ông khuyên mọi người hăy cầu nguyện theo
kinh cầu của tôn giáo ḿnh.
Đêm 16 tháng 3 năm 1975 Việt
Cộng bắt đầu rót từng cơn mưa pháo vào
thị xă bằng pháo binh 130 ly, chứng tỏ VC ở cấp
Sư Đoàn. Phố sá trở
nên hỗn loạn kinh hoàng. Nhà
cháy, người chết, người bị thương dẫy
dụa la hét, trẻ con lạc cha mẹ bơ vơ khóc
thét, hăi hùng…. Trong cảnh hoang tàn đổ nát, trong lửa
đạn tôi nương theo vách từng nhà mà đi, v́
không biết chừng nào mới ngưng pháo. Về đến xe, nghỉ một
chút th́ trời cũng hừng sáng….
Sáng ngày 17 tháng 3 năm 1975,
chiến đoàn di tản của Bộ Tư Lệnh
QĐII dàn quân bên này bờ sông Ba (EA PA - tiếng Thượng
EA là sông. Có địa phương th́ sông là IA. Thí dụ
sông IA Drang chảy ra biển chỗ cầu Đà Rằng)
ngoại ô tỉnh Phú Bổn (tên cũ là Cheo Reo), nh́n về
phía chiến trường bên kia giờ đây Sư Đoàn
320 Bắc Việt đă chiếm ngự và bố pḥng dầy
đặc trên mọi địa thế, trải dài tới
chân đèo Tona (Phú Bổn).
Đại Tá Đồng,
Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh gọi Đại
Tá Tây, LĐT-LĐ7BDQ, yêu cầu thay thế Chi Đoàn 1/21
CX của Đại Úy B́nh, rút Chi Đoàn 3/21 CX của tôi về
với BTL/Lữ Đoàn 2 KB.
Đại Tá Tây không đồng ư.
Tôi hiểu Đại Tá
Đồng rất tin tưởng nơi tôi, cần tôi
trong t́nh thế nguy hiểm này.
Đầu tiên Chi Đoàn
1/8 Chiến Xa M41 và một Tiểu Đoàn BĐQ được
lệnh mở ṿng vây, tiến vào mục tiêu phía Tây liên tỉnh
lộ 7B. Tôi đứng trên
chiến xa chỉ huy bên cạnh là Trung Tá Phúc, Liên Đoàn
Phó BĐQ, Đại Úy Lai Quốc Nam, SQ Tài Chánh Thiết
Đoàn 3 Kỵ Binh, dùng ông nḥm quan sát.
Chi Đoàn và BĐQ tiến
lên chưa đầy 300 mét th́ hai chiếc phản lực
cơ F5 bất thần xuất hiện, bổ nhào xuống
đánh 2 quả bom, tiêu diệt hơn 1 Đại Đội
BĐQ:
-Oanh kích lầm?
Tôi không nghĩ thế, v́
ngay sau BĐQ là chiến xa, nên rất dễ nhận diện
đơn vị bạn. Cả
Chi Đoàn 1/8 CX và BĐQ đều rút về vị trí
cũ.
Đại Tá Đồng ra
lệnh cho tôi mở đường máu mà đi:
-Không khai triển đội
h́nh tác chiến.
-Nếu đứa em nào bị
rớt th́ bỏ lại.
-Cố
bảo toàn lực lượng, qua bên kia đèo gặp
Đại Tá Tây để yểm trợ 12 chiếc hỏa
tiễn TOW.
Quan sát
quang cảnh của chiến trường, tôi nhận thức
ngay chiến đoàn di tản đang rơi vào một t́nh
trạng cực kỳ nguy hiểm.
Trước t́nh thế cấp bách như vậy, tôi
nghĩ ngay là không thể nào đưa hết vợ con tôi
vào trong pháo tháp v́ nếu chiến xa bị bắn, vợ
con tôi sẽ chết hết.
Tôi mật lệnh cho Trung Úy Đ́nh, Chi Đoàn Phó
tăng cường thêm 3 chiến xa M48 để hộ tống
chiếc M113 chở vợ con tôi và đoàn Thiết Xa M548 chợ
gia đ́nh binh sĩ. Chiến
xa của Trung Úy Đ́nh có gắn lưỡi xẻng, có thể
ban đất, lấp hầm hố làm đường cho
các xe khác qua được.
Tôi nói thêm:
-Kể từ giờ phút
này, anh chỉ trực tiếp theo lệnh tôi. Nếu tôi qua được, gọi
là phải theo ngay, bất chấp lệnh khác của bất
kỳ ai.
Tôi gọi
các chi đội trưởng:
Trên đường đi, nếu các anh gọi mà không
thấy tôi trả lời, cứ làm theo sự hướng
dẫn của anh chi đội trưởng đi đầu,
Thiếu Úy Liêm (Thiếu Úy Liêm là con chim đầu đàn
trong Chi Đoàn, anh ta là cháu của Chuẩn Tướng
Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh). Tôi nói như vậy, v́ sợ lẽ
tôi có bị ǵ không lên tiếng được, đơn vị
sẽ không bị rối loạn.
Khi Chi Đoàn vừa qua bên
kia sông chưa đầy 1 km th́ địch tấn công tứ
phía bằng đủ loại vũ khí, đại bác 75 ly
không giật, B40, B41, thượng liên, đại liên….Chúng
tôi xử dụng đại bác ít kiến hiệu v́ trên xe
chất đầy lính BĐQ của LĐ 7 nên hầu hết
chỉ nhờ vào đại liên 50 và súng cá nhân của lính
BĐQ. Đi được
khoảng 2 km th́ xe chỉ huy của tôi bị một viên
đại bác 75 ly vào đầu xe.
Nhờ cái đầu chiến xa cong như cái mu rùa nên
nó trượt đi, hơn nữa thép ở đó dầy
gần 2 tấc, nhưng sức mạnh của của viên
đạn làm chiến xa giật lùi lại và bất động. Lính BĐQ tùng thiết rớt
như sung rụng. Tôi bảo
tài xế cố gắng đề máy, sau vài lần may mà
máy nổ lại. Trung Tá Phúc bảo:
-Anh Đông coi lại có bị
thương không? Mặt anh
đầy máu.
Khi gần tới chân
đèo Tona, tôi nghe anh chi đội trưởng đi đầu
gọi:
-“Nhật
Quang” by pass bên mặt.
Khi tới nơi, xuống
by pass th́ thấy một đàn em của tôi nằm dưới
cái cầu sập. Tôi thắc
mắc tại sao nó không nghe theo lệnh.
Sau này về tới Nha
Trang, tôi gặp lại anh Thiếu Úy chi đội trưởng
đi xe đó cho biết có nghe lệnh, nhưng v́ anh tài xế
bị một viên thượng liên từ trên triền núi bắn
xuống trúng ngay đầu, nên xe cứ tiếp tục chạy.
Khi tôi qua tới bên kia
đèo, Chi Đoàn (-) của tôi c̣n lại 7 chiếc (1 chiếc
sập cầu, 3 chiếc bị rơi lại phía sau). Lính tráng chết và bị
thương c̣n bám được trên xe khá nhiều.
Tôi gặp lại Đại
Tá Tây và 12 chiếc xe Jeep gắn hỏa tiễn TOW tại
đó. Ông ta đi qua đèo từ
hôm qua nên trót lọt.
Tôi có liên lạc với
Trung Úy Đ́nh mà không được v́ bức chắn song của
đèo Tona. Cuối cùng, tôi bảo:
-Nếu anh nghe được
tôi, th́ bấm máy 3 cái để trả lời tôi.
-Cũng im lặng.
Quá tuyệt
vọng, nhưng tôi vẫn cố gắng:
-Nếu anh nghe được
tôi th́ nói với Đại Tá Đồng: Yêu cầu dội bom napalm cả 2
bên đường.
-Nếu không, huy động
hết các đơn vị Thiết Giáp c̣n lại dàn đội
h́nh tử chiến với chúng.
-Thứ ba, tôi nghẹn lời
không nói được (Thứ ba: Anh cho lùi lại về một
làng Thượng nào gần đó, thả vợ con tôi và các
bao gạo, sữa xuống. Việc
này tôi đă chuẩn bị trước khi di tản). May ra vài chục năm sau c̣n có
ngày tái ngộ.
Đêm
đó ngồi trong pháo tháp xe, tôi vừa khóc vừa cầu
nguyện:
“Vinh
danh thiên Chúa trên các tầng trời
B́nh
an dưới thế cho người thiện tâm.”
Đại
Tá Tây ngồi bên cạnh tôi.
Lúc ấy có một ông Sĩ Quan tới báo cáo việc
ǵ đó. Ông ra dấu bảo
im lặng v́ tôn trọng sự đau khổ của
tôi. Từ khi vào lính, đây là
lần đầu tiên tôi khóc.
(Trong
khoảng thời gian này, tôi nghĩ Đại Tá Tây cho lệnh
hộ tống đoàn hỏa tiễn TOW đi trước.)
Trước khi di chuyển,
chúng tôi chôn vội các quân nhân tử trận. Người bị thương khá
nhiều. Đại bác xe tôi
cũng được dùng làm cần treo mấy chai
“serum”. Không c̣n thảm cảnh
nào hơn.
Tôi quá đau ḷng, v́ biết
rằng trong hoàn cảnh đó, vợ con tôi không thể nào
sống sót được. Chi Đoàn và Liên Đoàn 7 BĐQ
phải tiếp tục cuộc hành tŕnh suốt cả
đêm, dự kiến sẽ ra Tuy Ḥa.
Khoảng 2 giờ đêm
hôm đó chúng tôi tiến gần quận Phú Túc, Đại
Tá Tây liên lạc với bên Tỉnh, họ bảo Chi Khu c̣n
do bạn kiểm soát. Gần
đến Đại Tá Tây nói: ḿnh tạm vào đây để
nghỉ ngơi một chút. Tôi
tŕnh bầy với ông ta: Ban đêm mà Thiết Giáp đi vào
ṿng đai pḥng thủ của họ rất bất tiện,
nếu không phải là bạn th́ càng nguy hiểm. Đại Tá Tây liên lạc lại
một lần nữa, họ xác nhận, cách đây 1 tiếng,
giới chức đó c̣n có mặt tại quận. Chúng tôi vào, vừa lọt vào trong
th́ chạm địch, hai bên bắn nhau, vừa bắn vừa
rút ra ngoài.
Trong đêm tối, có một
chiến xa băng qua một đầm lầy mà anh ta cứ
tưởng là ruộng khô. Tôi
cố gắng kéo xe lên, nhưng không thể tới gần
được. Càng kéo, xe càng
lún sâu xuống. Tôi xin lệnh
Đại Tá Tây để phá hủy.
Mờ sáng hôm sau, chúng tôi rút
về ngọn đồi phía Nam “đồn VC”. Chi Đoàn bố trí hàng ngang bên kia
triền đồi. Tôi cho lệnh
2 M48 và một Trung Đội BĐQ giả cách di chuyển
trên đường cách đồn khoảng 500 mét và dặn
các trưởng xa, tài xế nhận dạng mục tiêu. Từ bên trong “đồn VC” và các
công sự pḥng thủ bên ngoài thi nhau nhả đạn. Tôi gọi mấy đứa em trở
về.
Chúng tôi áp dụng chiến
thuật trận địa chiến, căng hàng ngang tiến
vào dùng hỏa lực tối đa và xích chiến xa dẫm
nát mục tiêu. Nh́n lại,
không c̣n súng bắn trả…chúng tôi bọc theo triền đồi
qua khu vực đó.
Đến một cánh rừng
kia th́ trời đă sáng, chúng tôi gặp đơn vị bạn
trách nhiệm an ninh lộ tŕnh.
Đó là Thiết Đoàn Kỵ Binh và Trung Đoàn Bộ
Binh (tôi không tiện nêu danh số).
Tới chiếc M113 chỉ huy, tôi gặp ông Trung Tá Thiết
Đoàn Trưởng. Mặc
dù tôi không thuộc quyền chỉ huy của ông ta, nhưng
tôi tôn trọng v́ ông ta là Sĩ Quan Thiết Giáp cao cấp nhứt
tại đó. Tôi lễ độ
bước xuống xe, tới chào và báo cáo cho ông ta biết
t́nh h́nh phía sau. Ông ta ngồi
trên cửa vuông M113,
bên cạnh là một người đẹp nóng
bỏng. Cạnh cô ta là ông
Đại Tá Trung Đoàn Trưởng BB. Ông ta không thèm xuống xe nói chuyện
với tôi mà phán:
-Tôi thấy t́nh h́nh không có
ǵ đáng kể, sao các anh hốt hoảng vậy.
Tôi hiểu
là ông ta muốn “xưng hùng” với người đẹp. Tôi cười trả lời: Cái đó tùy nơi nhận thức
của Trung Tá. Tôi với Đại
Tá Tây đă đi qua, thấy sao tôi nói vậy. Ông ta tiếp:
-Chiến trường ở
đây, nếu so với ngoài Quảng Trị th́ không thấm
vào đâu cả. Tôi nói:
-Xin lỗi Trung Tá. Rừng nào cọp nấy. Tôi nghĩ nếu nói về rừng
núi Tây Nguyên th́ vết xích tôi có lẽ dẫm nhiều
hơn Trung Tá….
Chưa
hết đâu. Lúc đó tôi
đang cầm khẩu AR15/M18 có gắn ông phóng, hệ thống
hăm thanh và máy nhắm nữa.
Ông Đại Tá Bộ Binh bèn nói:
-Anh có khẩu súng đẹp
quá, nhưng cấp bực anh mà về thành phố không xử
dụng được đâu.
Cho tôi đi. Tôi đáp:
-Đại Tá nói ǵ tôi không
hiểu. Tôi chỉ vào cây súng
và bảo ông ta:
-Đại Tá hỏi nó, nếu
nó bằng ḷng, tôi đưa ngay.
Lên xe,
tôi với Đại Tá Tây nh́n nhau cười….
Trên đường đi
cũng khá gay go, nhưng đáng kể nhứt là việc giải
tỏa một đoạn đường đôc đạo
bị tắc nghẹn, mở lối cho mấy mươi
vạn sinh linh đi t́m sự sống.
Khi đến một vùng
đồi núi rộng lớn, cũng gần tới quận
Củng Sơn (Tùy Ḥa) th́ gặp một rừng người
tị nạn, ước lượng khoảng 50 ngàn
người. Không biết họ
có mặt tại đây từ bao giờ, có lẽ từ
khi QĐII cho lệnh di tản gia đ́nh binh sĩ. Tự dung phía trước dừng
lại khá lâu. Tôi hỏi anh chi
đội trưởng đi đầu. Anh ta đáp:
-“Nhật
Quang” tôi đang gặp trở ngại. Không giải quyết được. Tôi trả lời:
-Anh nhờ ông “mai bạc”
đi với anh đó (Thiếu Tá Hoàng Đ́nh Đốc,
Tiểu Đoàn Trưởng BĐQ) giải quyết dùm.
-Ông ta cũng bó tay. “Nhật
Quang” xuống đây xem.
Đại
Tá Tây hỏi tôi việc ǵ. Tôi
trả lời: Chưa rơ. Thiếu
Tá Đốc cũng không giải quyết được.
Tôi
đi đến nới, nh́n xuống, tôi thấy một
đường độc đạo, hẹp, dốc
đứng từ trên triền núi đổ xuống. Xuống
chừng 10 mét là một cánh cung, lưng cong chữ “C” nhô ra
bờ vực sâu thăm thẳm.
Đúng ngay chỗ ấy, 1 chiếc GMC (xe 10 bánh) nằm
vắt ngang, 1/3 nằm chắn đường, 2/3 trên bờ
bực.
Tôi hỏi
Thiếu Tá Đốc: Sao anh
không huy động vài mươi lính đẩy nó xuống. Thiếu Tá Đốc trả lời: Vô Phương, v́ khung và bánh xe máng
vào một tảng đá lớn.
Xây qua anh tài xế chiến xa, tôi hỏi: Anh không cố gắng đẩy
nó được sao? Mặt
anh c̣n tái xanh, mồ hôi đầy trán trả lời: Thưa Thiếu Tá, em đă cố
gắng nhiều lần, đều trượt, xe em nhiều
lần suưt rơi xuống hố sâu nên em không dám xuống nữa. Tôi hỏi anh ta:
-Bây giờ, nếu tôi
đi với anh, anh dám xuống không?
-Nếu Thiếu Tá cùng
đi, em dám chứ.
Tôi cho
lệnh quay ṇng đại bác về sau và cho nhân viên xa đội
xuống hết. Xây qua Đại
Tá Tây:
-Đại Tá có thể giúp
tôi một việc được không?
-Sao không. Việc ǵ?
Tôi chỉ
xuống đường dốc đứng khoảng
hơn 200 mét và nói: Đường
hẹp chỉ vừa đủ ḿnh xe đi qua, người
di tản đông như kiến cỏ. Nếu chiến xa tôi lao ḿnh xuống
th́ một sự kinh hoàng khủng khiếp đến
rơn người chưa từng thầy trong lịch sử
sẽ xẩy ra….Xin Đại Tá cho lính BĐQ xuống dọn
sạch con đường dốc cứ 2, 3 mét một anh,
yêu cầu dân trèo hết lên triền núi, nếu cần th́ bắn
chỉ thiên, họ có chửi cũng đành chịu.
Đường sạch
người dân rồi, tôi trèo lên xe ngồi ngay sau anh tài xế
rồi nói:
-Anh yên tâm, tôi ngồi
đây, nếu xe lọt hố, tôi chết trước, anh
không sao đâu. Bây giờ anh chỉ
nghe và làm theo bàn tay tôi chỉ.
Đừng nh́n chiếc xe GMC, mặc kệ nó. Anh chỉ nh́n vào vách núi bên trái.
-Giữ bên trái, sát vào vách
núi.
-Từ từ xuống, thẳng,
tới một chút.
-Lùi lại, tới, thắng.
-Nhúc nhích tay lái, thắng,
lùi lại. Lúc đó chiến
xa muốn trèo lên xe GMC kia.
-Từ từ xuống, thắng,
tôi ráng chỉ anh tài xế làm mấy lần mà không
được. Đầu chiến
xa cứ cưỡi lên xe GMC.
Chợt tôi nh́n thấy cái móc kéo xe trước đầu
chiến xa, nó cũng ngang tầm với cái cảng xe
GMC. Tôi bảo anh tài xế chiến
xa:
-Giữ hết sang trái, vào
vách núi, từ từ xuống.
Kỳ này cái móc chạm vào cảng xe GMC. Tôi bảo anh tài xế chiến xa
nhúc nhích xe một chút. Khi thấy
nó chạm vào phần dưới của cảng xe GMC là tôi
ra dấu đẩy. Chiếc
xe GMC từ từ lột xuống hố và chiếc chiến
xa tôi đang -oôm sát vách núi lao ḿnh như con ngựa chứng
xuống đèo. Nếu c̣n ai
trên đường, tôi nhắm mắt lại, không dám
nghĩ tới.
Tiếng vỗ tay vang lừng
cả một góc chân đèo. Nó
là phần thưởng lớn nhất trong đời lính
của tôi. Tôi được ẩn
thưởng bội tinh với nhành thiên tuế của trời
trao ban.
Trong đời binh nghiệp
của tôi, tôi chưa hề thắng trận lớn, không
giêt được nhiều địch quân, nhưng lần
này làm cho tôi mát ruột mát gan.
V́ nếu tôi không dám thí mạng sống ḿnh th́ biết
bao nhiêu người, bao nhiêu trẻ con (hàng ngàn) phải chết
đói, chết khát tại đó.
Tôi nghe nói có người phải đổi lấy 1
lượng vàng để lấy một chai nước.
Thủa xưa, khi c̣n làm thầy
giáo, tôi dậy học tṛ hai câu thơ:
Dẫu
xây chín đợt phù đồ,
Chưa
bằng phúc cứu cho một người.
Bây giờ
chính là lúc tôi thực hành bài học đó.
-o
O o-
Tôi không biết phía sau Đại
Tá Nguyễn Văn Đồng đă điều động
mấy Chi Đoàn Thiết Giáp c̣n lại như thế nào
mà không có chiếc nào qua được, bao gồm BTL/Lữ
Đoàn, Thiết Đoàn 21 Chiến Xa với 2 Chi Đoàn,
Thiết Đoàn 3 Ky Binh (-) và 1 Chi Đoàn Chiến Xa M41 của
Thiết Đoàn 8 Ky Binh.
Cuối cùng 2 ông Thiết
Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 21 CX, Trung Tá Nguyễn
Cung Vinh và Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh, Thiếu Tá Nguyễn
Văn Triết phải bỏ xe chạy bộ lội qua
sông. Trung Tá Nguyễn Cung Vinh
đuối sức bị chết ch́m.
Có tin đồn Đại
Tá Nguyễn Văn Đồng theo Việt Cộng?
-o
O o-
Khi Chi Đoàn tôi qua sông rồi,
một chiến xa của Chi Đoàn khác đi qua làm sập
cầu, lưu thông bị tác nghẽn, phía sau trở nên hỗn
loạn.
Phần 4 chiếc Chiến
Xa M48 do Trung Úy Đ́nh chỉ huy trách nhiệm hộ tống
chiếc M113 chở vợ con tôi và đoàn Thiết Xa chở
gia đ́nh binh sĩ của Chi Đoàn chạm địch nặng
rồi thất lạc nhau. Chiếc
M113 chở gia đ́nh tôi bị B41 bắn vào pháo tháp, Trung
Sĩ I Thiệu (Cha đỡ đầu của con tôi - Bằng
Phong) trưởng xa, ngồi trong pháo tháp xử dụng cây
đại liên 50, chết ngay tại chỗ. Vỏ đạn
và khói súng cộng mảnh thép vụn rơi xuống phỏng
cả vợ con tôi. Hầu
như nhân viên xa đội đều chết chỉ c̣n lại
anh Binh 2 Ḥa, người Xă Phương Ḥa (Kontum) c̣n sống
sót nhưng bị gẫy tay, không thuốc men, tuần sau gặp
lại nhau, tay anh ta mưng mủ và có gịi.
Vợ con tôi và bà chị cùng với
một đứa con ḅ ra cửa vuông, ráng lết vào rừng,
không ăn, không uống vẫn cương quyết nhất
dạ đi t́m chồng mà thật sự không biết chồng
ḿnh đang ở đâu? Và tin tưởng là tôi sẽ trở
lại cứu. V́ trong quá tŕnh
tôi không bao giờ bỏ vợ con tôi trong những hoàn cảnh
hiểm nguy. Một điều
may mắn là chiếc M113 này lại chạy bằng dầu
cặn (Diesel) nên không bùng cháy lên ngay (hầu hết xe M113
đều chạy bằng xăng).
Theo lời mẹ Nhung (vợ
tôi) kể lại, bà ta 4 đứa con, đứa bé nhất
Bằng Phong mới sinh chưa đầy 3 tuần lễ,
sức khoẻ bà rất yếu, ở nhà đi đứng
c̣n phải vịn tường v́ khi sinh con bà bị làm
băng. Vậy mà bà phải bồng con sơ sinh dắt
theo 3 đứa khác mà lết đi, hết cḥm núi này qua ngọn
đồi kia liên tiếp trong 3 ngày đêm, không một miếng
ăn, không một giọt nước uống, trong cảnh
màn trời chiếu đất.
Ngày th́ nóng gay gắt, không khí đă khó thở lại
càng nghẹt thêm mùi khói súng và mùi tử khí. Ban đêm th́ nặng nề, u uất.
Người ta thường
bảo: Mẹ nuôi con bằng
bầu sữa mẹ, bằng mồ hôi và nước mắt. Mẹ Nhung không chỉ nuôi con bằng
sữa mẹ mà c̣n tái sinh con bằng máu, nước mắt
và cả bằng nước tiểu nữa. Đây không phải là lối nói ẩn
dụ hay dùng mỹ từ trong văn chương mà chính là
một hiện thực. Một
sự thật tàn nhẫn, nghiệt ngă, đứt ruột
bầm gan trong cảnh hoang tàn, giết chóc man rợ của
chiến tranh. Tôi nghĩ sự
thật này đáng được đưa vào lịch sử
loài người về t́nh mẹ.
Mọi người đều
kiệt sức, ṃn mỏi chỉ c̣n chờ chết. Ở ngày thứ hai, các con chia nhau
bằng nước tiểu của mẹ của chúng. Đến ngày thứ ba, nước
tiểu cũng không c̣n. Bà phà từng
hơi thở cho các con, mớm nước bọt cho con, cuối
cùng rồi cũng cạn kiệt.
Các con nói: “Mẹ cho con một giọt nước tiểu,
rồi con chết cũng được. Mẹ Nhung khóc, nước mắt
chan ḥa với máu để cho các con liếm và cầu nguyện.
Vinh
danh Thiên Chúa trên các tầng trời,
Và
b́nh an dưới thế cho người thiện tâm.”
Và, nếu
không thể được, xin Chúa cất chúng con
đi. Rồi th́ tất cả
lịm dần….Đó đây đầy xác người….Ôi!
ḱa một đứa bé sơ sinh đang nghẻo đầu,
miệng c̣n ngậm bầu vú cạn sữa trên xác mẹ. Đằng kia một đám
người đang oằn oại rên la. Mùi thuốc súng, bom đạn, mùi
tử khí nồng nặc tanh tưởi, cùng nhau xô đẩy
con người vào cạnh tuyệt vọng, vào cái chết. Gần đó có một anh lính
BĐQ gom vợ và 2 đứa con lại rồi định
mở chốt lựu đạn để tự hủy
ḿnh và gia đ́nh. Mẹ Nhung bảo:
-Xin anh chờ tôi đưa
các con tôi ra xa một chút.
Thoáng
chốc “Đùng” một tiếng.
Cái chết của anh đă làm rạng danh ư chí bất
khuất của người lính VNCH: “Thà làm qủy nước Nam c̣n
hơn làm công dân Cộng Sản”.
Và, anh cũng không muốn vợ con anh phải sống
dưới một chế độ bạo tàn, không có tính
người. Nhưng đó lại
là h́nh ảnh “quang vinh” của những anh hùng cách mạng của
“bác hồ kính yêu” vị cha già của CSVN đă yêu
thương!!! đồng bào ruột thịt miền Nam.
Đêm đó trời không
mưa như lời cầu nguyện, nhưng có
sương mù dầy đặc, sương đêm mát lạnh
đă phục hồi sức sống…để, sáng hôm sau,
bà và các con ḅ xuống chân núi và gặp lại gia đ́nh
đến giải cứu.
-o
O o-
Giờ
tôi xin trở lại con đường máu:
Gần
tới quận Củng Sơn, tôi phạm phải một
sai lầm: làm sập một chiếc cầu nhỏ khiến đoàn lữ hành
phía sau phải mất vài tiếng đồng hồ để
làm “by pass” vượt qua.
Chiếc cầu này dài khoảng
10 mét, dĩ nhiên là trọng tải không đủ sức chịu
cho Chiến Xa M48 đi qua. Tôi
lội xuống ruộng, đi thám sát dọc theo con rạch
nhỏ. Không chỗ nào có thể
vượt qua được.
Đứng dưới gầm cầu nh́n lên thấy
toàn bộ lót bằng thép chữ “U”, cách khoảng 1 mét và bệ
cầu đúc bằng bê tông (concrete).
Tôi cho Chi Đoàn đi
qua. Cả 5 chiếc đều
lọt. Tới chiếc thứ
6, anh tài xế này run. Khi tới
giữa cầu khựng lại, cầu sập. V́ cầu ngắn, rất khó kéo
lên, phải 3 kéo 1. Tới quận
Củng Sơn, chúng tôi vào “dinh ông Quận”. Trước khi vào tắm rửa
Đại Tá Tây bảo anh cận vệ lấy quần áo
của ông ta cho tôi thay, v́ quần áo tôi dính đầy bùn
śnh khi kéo xe. Tôi bảo anh ta kiếm
lưỡi lam gỡ bớt 2 bông mai trắng ra. Đại Tá Tây bảo:
-Đâu được, tôi
làm Đại Tá mà lột xuống làm Thiếu Tá sao?
-Anh cứ mang lon Đại
Tá đi, càng tốt.
Tôi
đang thay quần áo th́ Đại Tá Tây gơ cửa, ghé vào
nói nhỏ:
-Anh đừng cho quận
Hiếu biết chuyện phía sau.
Họ biết được sẽ bỏ đi hết,
ḿnh không c̣n tai mắt. Ra ngoài,
tôi gặp Đại Tá Ủy, Chỉ Huy Trưởng BCH ở
đây. Tôi chào ông ta và xin lỗi
v́ mang lon Đại Tá bất đắc dĩ. Ông ta cười.
Nghỉ ngơi một chút,
rồi chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành tŕnh. Lên xe Trung Sĩ Dũng, trưởng
xa bảo tôi:
-Lính ĐPQ ở đây nó bảo:
Cái ông Thiếu Tá Thiết Giáp đó sao lên lon nhanh như vậy? Mới tới đây là Thiếu
Tá bây giờ đă là Đại Tá rồi.
Chúng tôi cùng với đoàn
người di tản tới bờ sông Ba? Sông rộng gần 100 mét. Trên đường đi cũng
có nhiều thảm cảnh xẩy ra trước mắt. Con chết, cha chết, mẹ
bơ vơ, vợ mất chồng….
Tôi gặp
một đoàn nữ tu của ḍng Phú Xuân (Pleiku). Tôi bảo họ rằng nếu
có thể được hăy làm cho trang phục “xấu xí”
đi trước cảnh hỗn quân, hỗn quan này.
Tôi xuống xe lội qua
sông để thăm ḍ, có 4, 5 anh lính BĐQ theo cận vệ. Lính tôi không xuống bảo vệ
tôi được, v́ xe nào cũng chỉ vỏn vẹn có
4 người.
Phải nói mấy anh lính
BĐQ của LĐ7 rất quí mến và lo lắng nhiều
cho tôi. Họ quơ quào đâu
đó được trái cây tươi, quả trứng…lo
cho Đại Tá Tây th́ cũng lo chăm sóc cho tôi. Đó là t́nh huynh đệ chi binh.
Sau khi thăm ḍ, tôi trở
lại báo cáo với Đại Tá Tây là Chiến Xa có thể
qua được v́ chỗ sau nhứt chỉ gần hông
tôi mà ḷng sông là cát sỏi.
Chúng tôi chuẩn bị,
vượt qua th́ có lệnh cấm của BCH Tiền
Phương. Lư do sợ Chiến
Xa sẽ phá hủy đập Đồng Cam trên đường
đi, gây lụt lội, tiêu hủy mùa màng và trở ngại
nặng cho cuộc triệt thoái.
Chúng tôi quay trở lại
quận Củng Sơn, tôi nh́n trên bản đồ hành quân
thấy phía Đông Củng Sơn là con sông Cùng Thủy, rồi
Cùng Cốc, cùng ǵ đó nữa….
Tôi lại nghĩ tới chuyện
xưa thời Tam Quốc, Bàng
Thống (Đệ Nhị Quân Sư của Lưu Bị)
danh xưng là Phụng Sồ, đi vào Lạc Phụng Ba rồi
tử trận. Hay đây
cũng là đường cùng của chúng tôi chăng? Đêm đó Đại Tá Tây mời
tôi vào lều của ông ta để nói chuyện riêng. Chỉ có 2 người.
-Tôi rất qúy trọng và
thương mến anh nên nói riêng cho anh biết. Ngày mai tôi lên trực thăng về
Tuy Ḥa. Tôi muốn anh cùng đi
với tôi. Tôi trả lời:
-Đại Tá đi th́ dễ
rồi, nhưng tôi c̣n kẹt.
Thực
ra BCH Tiền Phương có kế hoạch bốc cấp
chỉ huy đi để bảo toàn lực lượng
xét ra cũng hợp lư, v́ Liên Đoàn 7 BĐQ đă hoàn toàn bị
phân tán. Hai Tiểu Đoàn ở
Chư Kara, Tây Nam Pleiku phải đi bộ từ hôm 16 tháng
3 chắc cũng không c̣n đội ngũ khi qua vùng Tona, Phú
Bổn. Mười hai chiếc
hỏa tiễn TOW đă đi qua trước rồi, hiện
tại chỉ c̣n khoảng 60 người bên cạnh Đại
Tá Tây thôi.
-Anh Đông, theo lệnh
QĐII, tôi với anh ra Tuy Ḥa chớ không có trách nhiệm ǵ
ở Củng Sơn này.
Ngồi trên trực
thăng, ông ta bảo phi công chờ tôi, nhưng tôi khoát tay bảo
bay đi.
Khoảng
1 giờ sau th́ Chi Đoàn 3/3 Thiết Kỵ do Đại Úy
Hội chỉ huy cũng vừa tới. Đây là Chi Đoàn cũ do tôi chỉ
huy trước kia. Tôi tŕnh với
Đại Tá Ủy:
-Bây giờ tôi không c̣n đủ
nhân sự để điều khiển 5 Chiến Xa M48
này; vả lại có lệnh cấm không đi nữa
được. Hiện
đang được bố trí trong hệ thống pḥng thủ
quận. Đề nghị bàn
giao cho họ, chúng tôi sẽ hướng dẫn họ xử
dụng vũ khí và phá hủy xe, khi cần….Tôi
sẽ lên Chi Đoàn 3/3 để đánh ra ngoài. Đại Tá Ủy đồng ư.
Trên đường đi,
chúng tôi chạm địch 3 lần, có lần không quân bạn
yểm trợ đánh bom cách xe tôi chưa đầy 100
mét. Dĩ nhiên là chúng tôi điều
động trong rừng chớ không di chuyển trên lộ.
Về đến Tuy Ḥa, th́
đă vào đêm, Chi Đoàn được lệnh bố
trí tại sân vận động tỉnh. Tôi đi nhờ chiếc xe lam của
dân sự để vào dinh Tỉnh Trưởng với tâm
huyết là tŕnh cho Đại Tá Vũ Quốc Gia, Tỉnh
Trưởng, cũng là bố vợ của Trung Tá Nguyễn
Cung Vinh, Thiết Đoàn Trưởng của tôi để
ông có thể cho tôi theo trực thăng trở lại vùng
đèo Tona hy vọng t́m được con rể ông ta và vợ
con tôi. Nhưng Đại Tá
Gia không đồng ư. Lúc đó
tôi gặp lại Đại Tá Tây tại đó. Ông ta mừng rỡ và bảo tôi
ăn ngủ tại đó; nhưng tôi từ chối ra về
với Chi Đoàn 3/3 TK.
Khi tôi về tới Nha
Trang, một buổi sáng tôi vào BTL/QK2 với mục đích
t́m coi có gặp anh phi công trực thăng nào có đi công tác
về hướng Phú Bổn th́ xin tháp tùng để t́m kiếm
vợ con tôi.
Khi
đi ngang qua pḥng Tư Lệnh, cửa pḥng không đóng,
Thiếu Tướng Phú, Tư Lệnh QĐII/QK2 đang ngồi
trên sô pha. Thấy tôi ông vẫy
tay nói: Thiết Giáp vào
đây. “Toi” là Sĩ Quan Thiết
Giáp cao cấp nhất lọt tới đây. “Toi” đừng về Saigon. Nay mai Mỹ sẽ chở tới
Nha Trang một Thiết Đoàn Chiến Xa M48, “moi” sẽ bổ
nhiệm “toi” làm Thiết Đoàn Trưởng. Thiếu Tướng Phú biết
tôi v́ ngay từ khi về nhậm chức Tư Lênh QĐII,
ông có đến thăm Chi Đoàn tôi tại căn cứ
801.
Cùng lúc đó, không khí ở
Nha Trang cũng trở nên rộn rịp v́ có tin phái đoàn
Tổng, Bộ Trưởng từ Saigon ra thăm và họp
với Tướng Phú để thực hiện kế hoạch
tái định cư cho dân di tản thuộc 3 tỉnh
Pleiku, Kontum và Phú Bổn từ chân đèo Rù Ŕ trở về
phía Nam (tức từ vĩ tuyến 13 về Nam).
Thiệt là điều
đáng buồn và bẽ bàng cho miền Nam VNCH, từ Tổng
Thống tới hàng Tướng lănh đều bị Mỹ
lừa gạt và bán đứng cho Cộng Sản, bán đứng
máu xương của hàng triệu quân nhân, cán chính và thường
dân vô tội, bán đứng quê hương, tổ quốc
Việt Nam. Cộng thêm vào
đó, hơn 50 ngàn binh sĩ Mỹ v́ chiến đấu
anh dũng để bảo vệ tự do phải chết
trong thảm bại nhục nhằn. Phần lớn là do bạn ma
đầu chính trị, ăn trên ngồi trước ở
điện Capitol để ngày hôm nay Trung Cộng làm chủ
biển Đông, coi Thái B́nh Dương là ao nhà của họ.
Nhưng có một người
không lầm mà rất sáng suốt, người đó là
Đức Cố Hồng Y Phanxico Xavier Nguyễn Văn Thuận,
thời điểm bấy giờ là Giám Mục địa
phận Nha Trang.
Một hôm, tôi ra ăn
cơm ngoài phố Nha Trang. Từ
phía bàn ngoài, họ nói chuyện với nhau mà không thấy
tôi. Anh này bảo:
-Kỳ này Thiết Giáp
Pleiku bị thiệt hại nặng, mấy ông lớn
đều chết hết. Anh
kia căi lại:
-Không phải vậy. Nghe nói Thiếu Tá Đông lên M113 về
Nha Trang, nhưng vợ con ông đều chết hết. Anh kia căi:
-Không, vợ con ông ta không chết,
nhưng bị thương được một chiếc
trực thăng cứu đưa về một bệnh viện
Công Giáo ở Nha Trang.
Tôi tức
tốc chạy đến Ṭa Giám Mục và gặp lại
cha Phạm Thiên Trường (cha xứ Phú Bổn), cha
Trương Kim Hương (tuyên úy Sư Đoàn 6 Không Quân
và Lữ Đoàn 2 Ky Bịnh).
Sợ tôi đói, 2 cha nhờ cha quản lư dọn
cơm cho tôi ăn và tṛ chuyện.
Cách đó một bàn, tôi thấy Đức cha Thuận
đang tiếp chuyện với 2 vị linh mục đến
xin phép di tản ra Hạm Đội 7, đang ở ngoài
khơi, để qua Mỹ.
Đức
cha bảo: “T́nh h́nh VN là không thể cứu văn được. Tùy lương tâm các cha, nếu muốn
tôi cho phép. Phần tôi, tôi sẽ
ở lại.
Lúc ấy, ngài là Giám Mục
địa phận Nha Trang đồng thời đảm
nhận chức vụ Tổng Thư Kư hội Hồng Thập
Tự Quốc Tế nên sự hiểu biết và tầm
nh́n của Ngài có tầm vóc Thế Giới. Biết được cảnh
nước mất nhà tan, ngài chấp nhận ở lại
với con chiên và dân tộc, chấp nhận tù đầy. Bây giờ th́ Ngài đă về với
Chúa. Cha Trường cũng vậy. Các vị Linh Mục kia c̣n sống
hay không, tôi không biết.
Tôi là nhân chứng c̣n sống
nên thiết nghĩ phải ghi chép lại cho mọi người
biết….
Trước khi tôi từ
giă, cha Tuyên Úy Trương Kim Hương trao cho tôi một
b́ thơ có mấy mươi ngàn v́ biết tôi là một Chi
Đoàn Trưởng nghèo. Thật
là lạ đời.
Sau này khi tôi vào tù, tôi tự
nghĩ sao hồi c̣n quyền thế không chịu làm ra tiền
để giờ đây vợ con tôi phải đói khổ….
-o
O o-
Tôi ở lại Nha Trang một
hai hôm ǵ đó. Tôi t́m hết
các trại tiếp cư nhưng không thấy h́nh bóng vợ
con tôi đâu cả.
Có một hôm, tôi mừng rỡ
kêu to lên và chạy đến định ôm chầm lấy
một thiếu phụ trẻ đang ẵm con và mấy
đứa khác ngồi quanh…. Tất cả chỉ là vô vọng,
nhưng không hiểu sao trong tâm linh tôi vẫn nghĩ vợ
con tôi c̣n sống.
Tôi đi xe đ̣ xuôi Nam, xem
c̣n trại nào dọc đường không? Đến Phan Rang, tôi gặp lại
Chi Đoàn 3/3 TK và các Sĩ Quan của tôi trên đó. Tôi lại lên xe M113.
Dọc đường dân
chúng ra vẫy tay chào. Đến
một thị trấn (tôi không nhớ tên) dân chúng ào ra hai
bên đường, chận đoàn xe lại để tiếp
tế nước và thức ăn.
Có một cô gái c̣n nhỏ với lên thành xe cho tôi hai củ
khoai lang. Tôi rơi nước
mắt v́ cảm động cũng v́ tủi hổ v́ dân
thương ḿnh như vậy mà ḿnh không bảo vệ
được họ.
Trên đường xuôi Nam,
Chi Đoàn yểm trợ cho SVSQ trường Vơ Bị Quốc
Gia Đà Lạt triệt thoái đến tận phi trường?
nằm gần băi biển Đồ Dương. Trước khi đến Đồ
Dương, tất cả quân nhân di tản đều phải
được giải giới để xuống tầu. Riêng tôi và các Sĩ Quan chi đội
trưởng được Trung Tướng Lâm Quang Thi, Chỉ
Huy Trưởng trường cho phép lên máy bay Chinook về
Saigon.
Xuống phi trường
Tân Sơn Nhất, tôi gọi điện thoại về Bộ
Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh. Họ cho xe ra đón có Sự Vu Lệnh
hành quân nên dọc đường không bị Quân Cảnh giải
giới.
Chúng tôi về Bộ Chỉ
Huy Thiết Giáp, quê nhà của Phù Đổng Thiên
Vương với đầy đủ Sĩ Quan Chi Đội
Trưởng, trang bị súng ống, áo giáp, mũ sắt 2
lớp, bản đồ, địa bàn….Tất cả
đầy đủ phong độ của một Sĩ
Quan Kỵ Binh Thiết Giáp. Vào
tŕnh diện Đại Tá Thẩm Nghĩa Bôi, Chỉ Huy Phó
BCH/TGB, ông ôm choàng lấy chúng tôi, đón nhận những
đứa con từ chốn núi rừng xa xôi, lâu ngày mới
trở về thăm quê cha đất tổ.
Tôi ở lại BCH/TG ít
hôm. Trong thời gian đó, tôi
đi ra Vũng Tầu t́m các trại tị nạn ở
đó, cũng không thấy tăm hơi vợ con tôi. C̣n một trại nữa, tôi
chưa đi được là ở đảo Phú Quốc
th́ miền Nam VNCH đă lọt vào tay bọn Cộng Sản
Miền Bắc VN do tên VC nằm vùng Dương Văn Minh.
Khoảng 2 tuần lễ,
sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi mới biết được
tin nhau c̣n sống. Mẹ Nhung
(vợ tôi) bồng bế các con lặn lội vào Saigon
thăm chồng (v́ tôi đang ở trong t́nh trạng bị
giam lỏng). Không ng̣i bút nào có
thể tả xiết được sự xúc động,
nức nở nghẹn ngào trong cảnh đoàn tụ của
những người từ cơi chết trở về.
“Tưởng
như đă chết, nay sống lại
Tưởng
như đă mất, nay lại c̣n.”
Nhưng…. những ṿng tay
chưa siết chặt đă phải buông thơng, ră rời. Những giọt nước mắt
hạnh phúc chưa kịp chan ḥa th́ đă tắt đi
để thay vào đó những ḍng lệ khổ đau tiễn
đưa chồng, cha vào chốn lao tù Cộng Sản Việt
Nam.
Có
đi không hẹn ngày về…
Florida,
ngày 17 tháng 2 năm 2020
Kỷ
niệm ngày tôi vừa tṛn 80 tuổi