“NGƯỜI
BÁN SÁCH TRÊN BĂI BIỂN NHATRANG”
Phạm Tín An Ninh
Tôi trở về thăm quê hương sau hơn
mười lăm năm, kể từ ngày vượt
biển ra đi. Tôi quyết định
điều này qua bao nhiêu đêm ưu tư trằn
trọc. Tôi chẳng c̣n ai thân quen bên
ấy để về thăm. Mẹ
tôi mất hồi tôi mới lên năm. Cha tôi chết
cuối năm 1977 trong trại tù cải tạo Đá Bàn,
khi tôi đang ở một trại tù khác tận núi rừng
Việt Bắc và măi năm năm sau tôi mới nhận được
tin buồn. Đứa em gái mà tôi thương
quí nhất, mang h́nh ảnh của người mẹ mà tôi
chỉ c̣n mơ hồ trong kư ức, cũng đă kết
liễu cuộc đời ở cái tuổi tưởng
chừng lúc nào cũng có cả một bầu trời xanh
bao la trước mặt. C̣n bạn bè tôi, thằng
chết, đứa ra đi, gởi thân khắp bốn
phương trời.
Biết
là lần trở về này, rồi cũng chẳng khác ǵ
cái ngày cách đây mười sáu năm, từ một
trại tù miền Bắc trở về, tôi bơ
vơ lạc lơng trên chính nơi chôn nhau cắt rốn
của ḿnh. Tôi cũng không có ư định
về đây để t́m lại những kỷ niệm
ngày xưa. Những “hang động
tuổi thơ” chắc cũng đă biến mất
trước bao nhiêu giông tố năm nào bất ngờ
ụp xuống. Bây giờ chỉ c̣n sót
lại chút ít trong ḷng những người tha phương
lưu lạc. Bản thân tôi có quá
nhiều đớn đau và mất mát ngay trên chính cái thành
phố một thời xinh đẹp này. Tôi sợ
phải nh́n lại cái quá khứ hăi hùng và tang thương
đó. Tôi về chỉ để làm một
điều, mà nếu không làm được, ḷng tôi sẽ
ray rứt khôn nguôi. Có lẽ đến
khi chết tôi vẫn không làm sao nhắm mắt.
Tôi về để t́m lại phần mộ của cha và
em tôi, cải táng đem về an táng bên
cạnh phần mộ của mẹ tôi trong nghĩa trang
gia tộc ở quê tôi ngoài Vạn Giă. Điều
ước mơ của cha tôi, mỗi lần ông kể cho
tôi nghe về mẹ tôi và chuyện t́nh khá lăng mạn
nhưng cũng nhiều cay đắng của ông bà. Cha tôi được chôn cất sơ sài trên núi
Đá Bàn, bên ngoài một trại tù cải tạo lúc
xưa. C̣n em gái tôi, được gia đ́nh một
cô bạn thân chôn cất tại một nghĩa trang ngoài
Đồng Đế. Khó khăn và may mắn lắm tôi
mới t́m được tin tức về mộ phần
của cha và em tôi sau hơn hai mươi năm. Nhờ
một người bạn cùng tù với cha tôi, chính tay ông
đă đào huyệt cho cha tôi; và gia đ́nh cô bạn thân
của em gái tôi, vượt biên từ năm 1978, hiện
định cư tận bên Ḥa Lan, cung cấp chi tiết và
vẻ cả bản đồ hướng dẫn cho tôi.
Ngồi trên máy bay, tôi lo lắng đủ
điều. Mộ em tôi nằm trong một nghĩa
trang, dù chưa được xây, nhưng có tấm bia đúc bằng xi-măng nên có lẽ
dễ t́m; nhưng phần mộ của cha tôi, nằm trong
núi và cái trại cải tạo ngày xưa bây giờ đă
biến thành một khu kinh tế mới. Gần
ba mươi năm rồi, có biết bao sự đổi
thay.
Cuối cùng th́ tâm nguyện của tôi cũng
hoàn thành được một nửa. Trái
ngược với những lo lắng ban đầu, tôi
dễ dàng t́m ra phần mộ của cha tôi. Mặc dù
bối cảnh chung quanh thay đổi, nhưng bà con ở
vùng kinh tế mới này đa số là dân thành phố
bị cưởng bách “tự nguyện” lên đây, một
số ngày xưa là lính và công chức. Biết
đây là mộ của những người tù cải
tạo, nên họ thương mà rào lại và giữ ǵn.
Những dịp cuối năm họ đều thắp
hương, tảo mộ và kẻ lại tên trên những
tấm bia bằng gỗ, dù đă rong rêu
qua bao nhiêu mùa mưa nắng. Riêng phần
mộ của em tôi, ṃ mẫm suốt cả hai tuần tôi
vẫn t́m không ra. Cả khu nghĩa trang
bây giờ thay đổi. Người
chết nhiều quá. Nhiều ngôi mộ
mới xây, nhưng cũng có một số đă
được cải táng, dời đi nơi khác.
Nhà cửa cất san sát bên nghĩa địa. Người
sống bây giờ ở chung với
người chết. Tôi bắt chước
người xưa khấn vái, xin hồn thiêng em tôi về
chỉ cho tôi ngôi mộ của em nằm. Nhưng lời vái của tôi vẫn không thiêng.
Tôi thuê người cải táng phần mộ
của cha tôi. Đi từng nhà trong khu
kinh tế mới cám ơn ḷng tốt của mọi
người. Đưa hài cốt của cha tôi về
an táng bên cạnh mẹ tôi, trong nghĩa
trang gia tộc, thuê thợ xây lại tất cả
những ngôi mộ đă bao nhiêu năm không có ai chăm sóc.
C̣n một ngày nữa là hết hạn visa.
Tôi muốn đi một ṿng, t́m lại chút ǵ
của Nha-Trang xưa. Mùa hè Nha-Trang bây
giờ dường như nóng bức hơn ngày xưa.
Tôi thuê một chiếc xích lô chạy dọc theo
con đường Duy-Tân cũ. Vừa để cho mát,
vừa muốn t́m lại những lùm cây dương ngày
trước, thuở chúng tôi và bạn bè hẹn ḥ sau
những lúc tan trường. Một số lùm
dương vẫn c̣n đó, nhưng trơ trọi,
điêu tàn. Tôi bảo anh phu xe cho tôi
xuống trường Vơ-Tánh. Anh phu xe c̣n
trẻ, thắng xe lại, ngạc nhiên. Tôi hiểu, nên tôi
bảo tôi sẽ chỉ đường, anh cứ theo tôi. Ngôi trường cũ, nơi tôi có
biết bao kỷ niệm của ba năm theo
học, bây giờ không những cái tên trường, mà
tất cả đều trở thành xa lạ. Những hàng cây phía trước không c̣n. Ngôi
trường đứng chơ vơ,
chẳng c̣n sót lại chút ǵ thơ mộng, gây trong tôi
một cảm xúc bẽ bàng hơn là thương tiếc. Bất giác tôi nhớ đến em tôi. Đứa em gái xinh đẹp dễ
thương, đă cho tôi cái ấm áp của cả một
gia đ́nh, trong những ngày chúng tôi lớn lên không có
mẹ. Em học bên trường Nữ
Trung Học, nhưng thường đến đây chờ
tôi để hai anh em cùng ra biển. Em tôi thích tắm
biển, nhưng ngại đến đó một ḿnh nên
thường rũ tôi đi theo hộ
tống. Tôi tha hồ làm t́nh làm tội mấy
anh chàng muốn đến làm quen, tán tỉnh em tôi. Tôi
đi bộ dọc theo băi biển, t́m
đến khu có nhiều cây dừa trước
trường Bá-Ninh lúc trước, nơi ngày xưa em tôi
thường ngồi ở đó.
Tôi đưa mắt nh́n một ṿng từ xa.
Nơi bậc xi măng tiếp giáp băi cát, một
người tàn tật đang khó nhọc dùng cánh tay duy nhất c̣n lại giữ thăng
bằng trườn xuống. Trông anh ta giống như
một con cóc. Len lỏi trong đám
người đi tắm, anh hướng về phía tôi
ngồi. Lưng anh mang túi vải
chứa đầy sách, và kéo lê trên cát một cái túi vải
nữa, cũng toàn là sách. Anh lê lết
từng quăng, từng quăng ngắn. Bất
ngờ anh ta ngước lên. Thấy tôi gật
đầu chào, anh ta nh́n tôi cười rạng rỡ,
để lộ hàm răng trắng. Khuôn
mặt tuấn tú, râu quai hàm, vầng trán cao với mấy
sợi tóc vắt ngang rất nghệ sĩ. Anh dùng bàn
tay duy nhất lôi một cuốn sách trong
túi vải đang nằm trên mặt cát và từ từ
mở ra. Tôi liếc qua. Cuốn
sách có cái tựa viết bằng tiếng Anh, nói về
chuyện chuyến tàu Titanic. Tôi nhớ
đến cuốn phim cùng tên, mới quảng cáo rầm
rộ trên truyền h́nh Nauy mà tôi chưa kịp đi xem.
Bỗng tôi tṛn mắt ngạc nhiên khi nghe anh
mở lời chào và giới thiệu cuốn sách bằng
tiếng Anh mà anh phát âm rất lưu loát, không thua kém ǵ
những người Việt đă sinh sống lâu năm
ở nước ngoài. Anh lầm tưởng tôi là người
Nhật hay Đại Hàn ǵ đó. Tôi thán phục anh vô cùng
và bảo với anh tôi là người Việt, định
cư ở Nauy, nên tŕnh độ tiếng Anh của tôi chỉ
vừa đủ nói dăm ba câu xă giao, chứ làm ǵ có
thể thưởng thức được văn
chương. Tôi cám ơn anh và móc ví ra định biếu
anh một chút tiền, nhưng anh vội đưa tay ngăn lại
- Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành tiền cho
những người c̣n nghèo khổ hơn tôi.
Anh nhỏ nhẹ bằng một giọng thân
thiện và lễ độ.
Câu nói và thái độ của anh làm tôi rất
đỗi ngạc nhiên. V́ từ khi tŕnh giấy thông
hành vào nước, trước những người mang
lon, đội măo đại diện cho cả môt quốc
gia mà cũng không có được phong thái thanh tao như
anh; và chẳng lẽ ở trong cái thành phố ”mũi
nhọn du lịch” này lại c̣n nhiều người
khốn khổ hơn anh ?
Tôi đành mua một cuốn sách để anh vui ḷng
nhận tiền, nhưng rồi thấy anh cứ loay hoay
moi hết túi nọ đến túi kia,
để t́m đủ tiền thối lại cho tôi.
Tôi muốn hỏi thăm anh vài câu, nhưng anh đă
nhoẻn miệng cười và gật đầu chào tôi
rồi vội vàng lết sang mấy người khách
nước ngoài đang nằm phơi nắng trên hàng
ghế phía trước.
Từ hôm ấy, h́nh ảnh người tàn tật bán sách
trên băi biển Nha-Trang cứ lẩn quẩn trong
đầu và theo tôi về tới Nauy; để rồi
nếu có ai đó lỡ lời nói điều ǵ không
mấy tốt về những người nghèo khổ
ở Việt nam, tôi có cảm tưởng như đang
xúc phạm đến anh, người bán sách khả kính mà
tôi bất ngờ được gặp.
Năm sau, tôi lấy một tháng hè về
lại Việt
Sau một chuyến bay dài, tôi
mệt đừ người. Tôi trở về từ vùng
Bắc Âu lạnh lẽo, bây giờ lại gặp cái
nắng oi nồng của vùng nhiệt đới. Sau khi thuê khách sạn xong, tôi chạy ngay ra
biển tắm. Nằm dài trên băi cát, tôi
bỗng nhớ tới người bán sách năm xưa.
Tôi thả bộ theo bờ biển
về hướng mấy cái lều có bóng dáng nhiều
người ngoại quốc đang từ khách sạn kéo
ra, bỗng mắt tôi sáng lên khi nh́n thấy người tàn tật
đang lê lết theo sau. Cũng hai cái túi
vải đựng sách. Đúng là anh tàn tật
bán sách năm trước chứ c̣n ai. Tôi mừng
thầm như sắp sửa được gặp
lại con người mà bấy lâu nay tôi thường
nghĩ tới với ḷng mến mộ. Tôi
suy nghĩ làm cách nào để anh ta vui ḷng nhận sự
giúp đỡ của ḿnh. Nhưng người tàn
tật lúc nào cũng bám sát vào những người
nước ngoài. Tôi để ư thấy
người ta cũng không mua sách và chỉ cho anh tiền.
Tôi ngạc nhiên khi thấy anh ta cười, hớn hở
nhận tiền rất điệu nghệ, không nghe anh nói
cái câu thật tử tế mà một năm trước anh
đă lễ phép nói vơ’i tôi “Cám ơn
anh, nhưng xin anh để dành cho những người c̣n
nghèo khổ hơn tôi”. Một cái ǵ đó
thật đẹp vừa bị sụp đổ trong
ḷng. Tôi cảm thấy người nóng
hừng hực. Không biết là sức nóng giữa ban
trưa hay v́ máu nóng bốc lên đầu. Tôi cắm
đầu chạy lao vào những
đợt sóng cuồng nộ đang từ ngoài khơi
đổ vào bờ.
Nước biển trong xanh, sóng biển như những
cánh tay ôm tôi vào ḷng vuốt ve, dỗ dành.
Mặt nước mênh mông, trăi rộng
đến những dăy núi mờ xanh tận cuối chân
trời. Tôi nghe văng vẳng trong không gian như có
ai đang dạo đàn bản Nha Trang Ngày Về. Thiên nhiên
phần nào giúp tâm hồn con người rộng mở và
dễ cảm thông hơn.
Sau một hồi quần với sóng biển,
tôi cũng tạm quên người tàn tật bán sách đă
làm tôi hụt hẫng. Nhưng khi vừa bước
lên bờ cát th́ tôi lại trông thấy anh ta đang o bế
mấy người nước ngoài và đưa tay xin cả thức ăn thừa. Tôi nghi ngờ, có thể là người tàn tật
này không phải là người tàn tật năm xưa.
Tôi đến gần hỏi thăm. Nhưng chưa hỏi hết câu hắn đă
“Đ.m. cái khứa đói ră họng ra mà c̣n làm cao ấy
hả. Chết mẹ nó rồi..”
Chỉ nghe cái giọng lỗ măng của
hắn, tôi đủ biết chắc hắn ta không
phải là anh – người tàn tật bán sách mà năm
trước tôi đă gặp -. Tôi theo
người bán sách này với ư định hỏi thăm
thêm về anh cho ra lẽ, nhưng thấy hắn ta
chẳng mấy tha thiết. Hắn di chuyển chậm, nhưng
mắt hắn lại quan sát thật nhanh về những
đám người đang xuống băi ở quăng xa. Và khi
đi ngang qua chỗ ngồi của người đàn bà
bán cua luột, hắn hất hàm bảo: ”
Đó, vợ khứa đó ! ”
Tôi liền chụp ngay cơ hội, hy
vọng t́m ra manh mối. Nhưng khi tôi
lân la lại gần, thấy chị bán cua luột này có
vẻ nghiêm trang khác với những người bán hàng rong
b́nh thường, tôi không biết phải bắt
đầu làm sao. Tôi mua hết con cua này tới con cua
khác mà chẳng ăn con nào. Và cứ mỗi lần chị định
quảy gánh đi chỗ khác, tôi gọi giật lại mua
thêm một con nữa để giữ chân chị.
Vừa lúc chị nhận ra người khách mua cua này
cũng có ǵ khác thường, tôi buột miệng
: “Chị là vợ của người tàn tật bán
sách trên băi biển này mấy năm trước ?”. Chị ngớ người ra, im lặng nh́n tôi.
Có lẽ thấy tôi là một người xa lạ sao
lại ṭ ṃ vào một chuyện riêng tư.
Tôi kể cho chị nghe cái cảm t́nh
đặc biệt mà tôi đă dành cho anh ấy. Tôi muốn t́m cách giúp anh một phần nào nỗi
thống khổ tật nguyền. Tôi tha
thiết muốn biết về anh. Dường
như những lời chân thật của tôi làm cho chị
xúc động. Chị nh́n tôi, đôi mắt thật buồn :
- Em không phải là vợ của anh ấy. Tụi
em cùng cảnh khổ nên đùm bọc lấy nhau mà
sống. Một số người
đùa, gán ghép tụi em rồi quen gọi thế thôi, anh
ạ. Anh ấy đă chết cách nay hơn tám tháng. Em đă lo chôn cất anh ấy.
Ḷng tôi thắt lại, một phần v́ cảm
thương anh trong cảnh khốn cùng, một phần ân hận là giá năm trước ḿnh t́m cách
giúp đỡ anh, biết đâu đă cứu
được anh. Tôi có ư muốn nhờ
chị đưa tôi ra mộ để thắp cho anh nén
hương. Chị ngại ngùng nhưng
cuối cùng gật đầu hẹn bốn giờ
chiều chờ tôi trước khách sạn tôi ở.
Tôi thuê chiếc taxi, và xin phép cùng ngồi
với chị ở băng ghế sau để dễ dàng
tṛ chuyện. Trên đường ra
nghĩa trang, chị say sưa tâm t́nh cùng tôi, như từ
lâu lắm chị không có dịp nói ra những điều
bao năm dấu kín trong ḷng. Chị tên
Trang. Cha chị trước kia là
một trung sĩ địa phương quân, bị
thương năm 1968, trong trận tết Mậu Thân, nên
được giải ngũ. Mẹ chị mất từ
khi chị c̣n bé lắm. Cha chị không chịu tục
huyền mà ở vậy nuôi đứa con độc
nhất của ḿnh. Nhờ số tiền trợ cấp
ban đầu, ông mua được một căn nhà tôn
trong khu dành cho thương phế binh, nằm phía sau ga xe lửa. Ông xin được cái chân bán vé
cho hăng xe đ̣ Phi Long ở bến xe Xóm
Mới. Lương ba cọc ba đồng cộng với
tiền hưu bỗng hàng tháng, ông dành dụm cố lo
lắng cho cô con gái học hành. Năm 1974, xong
lớp 12, chị thi đậu vào trường sư
phạm. Sau ngày Nha-Trang “giải phóng”,
chị bị loại ra bởi lư lịch “ngụy quân”
của cha. Lúc này, gia đ́nh trở nên bi
đát. Cha chị, tất nhiên, không c̣n
được lănh tiền hưu bỗng ngày trước,
chị không t́m ra bất cứ việc ǵ làm. Cuối
cùng cha chị đành phải bán một nửa căn nhà
vốn đă chật chội để mua một chiếc
xích lô làm phương tiện sinh nhai. C̣n
chị th́ đi bán hàng rong từ dạo ấy.
- Đến bây giờ ông cụ vẫn c̣n đạp xích lô ? Tôi ṭ ṃ hỏi.
-
Ông mất lâu rồi anh ạ. Tội nghiệp, ông
thương anh Bá lắm, xem anh ấy như con.
Tôi ngạc nhiên :
-
Anh Bá nào ?
- Người tàn tật bán sách đó.
Đến bây giờ tôi mới biết tên
của anh.
Chị cho biết anh Bá ngày xưa là trung úy phi
công. Máy bay của anh bị bắn rơi vào những
ngày Sài g̣n nguy khốn, khi yểm trơ cho mặt trận
Long Khánh của Sư Đoàn Tướng Đảo.
Anh được anh em bộ binh tiếp
cứu, nhưng anh bị thương rất nặng,
phải đưa về tổng y viện Cộng Ḥa.
Sau cuộc giải phẫu khá dài, anh tỉnh
lại. Nhưng khi biết được ḿnh bị
mất hai chân và một cánh tay, anh
ngất xỉu và hôn mê suốt cả một tuần. Ngay sau khi Sài g̣n vừa “giải phóng”, anh bị
đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Ḥa khi
vết thương chưa lành. Gần hai tháng sau cha
em gặp anh ấy trên bến xe Xóm
Mới. Biết được phần nào
hoàn cảnh thương tâm, cha em lấy xích lô chở anh
về nhà chăm sóc vết thương và anh sống
với cha con em từ dạo ấy.
- Anh ấy không có thân nhân. Tôi hỏi.
- Anh có một cô em gái ở đây, nhưng mà chết lâu
rồi. Ban đầu không nghe anh nói điều này. Măi sau
này thấy trên đầu giường của anh có thờ
tấm ảnh của một cô con gái và có nhiều đêm
rất khuya anh ngồi bất động trước
tấm ảnh, cha em hỏi mấy lần, anh mới
bảo đó là cô em gái duy nhất của anh.
- Anh không c̣n bạn bè ?
- Nghe nói anh đang học một khóa phi hành ở đâu bên
Mỹ, rồi nhờ có tŕnh độ anh ngữ khá, anh
được lưu lại Mỹ làm sĩ quan liên
lạc không quân. Nghe tin miền
Xe dừng lại, tôi bước xuống
trả tiền và bảo anh tài xế chờ tôi hoặc có
thể quay lại sau 30 phút. Tôi
bước vào nghĩa trang khi ḷng c̣n vương vấn
một câu chuyện buồn. Tiếng
chuông nhà thờ từ đâu vọng lại càng làm cho ḷng
tôi chùn xuống. Đi quanh co một lúc,
chị Trang bảo tôi dừng lại và chỉ cho tôi ngôi
mộ của anh Bá, nằm bên cạnh ngôi mộ của cô
em gái. Cả hai ngôi mộ được xây bằng
đá đơn giản, trên tấm bia
có cả tấm ảnh. Tôi ngạc nhiên khi thấy trên
mộ bia anh Bá có h́nh một thập
tự giá, v́ đây là nghĩa trang Phật giáo. Tôi
đến trước mộ anh, thắp ba nén hương
thâm khấn vái cho anh được sống an
b́nh trong một thế giới chẳng c̣n thù hận, và nói
lên ḷng cảm mến của một người
đồng đội cũ. Tôi nh́n kỹ tấm ảnh
của anh trên mộ bia, tấm ảnh
chụp lúc anh c̣n là sinh viên sĩ quan không quân, phong
độ, hào hùng. Trông khuôn mặt quen quen.
Có lẽ do bộ quân phục làm tôi nhớ tới khuôn
mặt của những bạn bè ngày trước.
Tôi bước sang mộ cô em gái, thắp ba nén hương
cho một người không hề quen biết. Tôi ṭ ṃ
bước lên xem tấm ảnh trên mộ bia.
Bỗng đầu óc tôi choáng váng, mắt tôi
mờ đi như chẳng c̣n trông thấy những ǵ
trước mặt. Trời ơi, có điều ǵ
lầm lẫn hay không ? Người trong
tấm ảnh chính là An B́nh, cô em gái yêu
dấu của tôi.
Tôi cố gắng lấy lại b́nh tĩnh,
mở đôi mắt thật to để nh́n kỷ lại
tấm ảnh. Không thể lầm
lẫn được. Chính tấm
ảnh của em tôi mà tôi vẫn treo trên bàn thờ cùng
với ảnh của cha và mẹ của tôi. Tôi
vẫn thường đứng hằng giờ trước
những tấm ảnh này mỗi khi thấy ḿnh quá
đỗi cô đơn trên xứ lạ quê người. Làm sao tôi có thể nhầm lẫn được.
Bỗng dưng tôi khóc sụt sùi.
Trang nh́n tôi ngạc nhiên :
-
Anh có quen biết em gái anh Bá ?
Tôi im lặng không trả lời, bảo
chị cùng đi với tôi. Chiếc taxi
vẫn c̣n đợi tôi tự năy giờ. Tôi móc bóp t́m
địa chỉ của cha cô bạn thân của em tôi,
đă từ Ḥa Lan về đây
trước tôi hai ngày, và chúng tôi hẹn gặp nhau ngày mai. Bác trọ ở nhà một người em trong khu
cầu Xóm Bóng. Tôi đưa địa
chỉ cho anh tài xế. Chỉ hơn
năm phút sau là anh ta đă t́m được. May mắn là bác có ở nhà. Tôi
xin lỗi bác là đă đến t́m bác sớm hơn ngày
hẹn. Báo cho bác là tôi đă bất
ngờ t́m được mộ của em tôi. Xin bác cùng đi với tôi ra nghĩa trang
để xác nhận lại vị trí ngôi mộ của em
tôi mà ngày trước bác đă có ḷng chôn cất hộ.
Trở lại nghĩa trang, tôi đề
nghị bác dẫn đường, như muốn
để xác minh chắc chắn là bác biết rơ ngôi mộ
ấy. Bác ṃ mẫm gần 30 phút mới
t́m được ngôi mộ của em tôi. Bác ngạc
nhiên là ngày ấy bác chỉ kịp dựng một tấm bia, chứ không có xây mộ đá như bây
giờ, và trên bia cũng chỉ có tên chứ không có h́nh
ảnh của em tôi.
Tự năy giờ Trang vẫn c̣n ngạc nhiên,
không biết rơ việc ǵ. Tại sao cô gái này là em gái
duy nhất của anh Bá mà cùng là em gái của tôi
? Tôi xin lỗi v́ xúc động quá, tôi
sẽ kể cho Trang nghe trên đụng về nhà.
Tôi đưa cha cô bạn của em tôi về
lại nhà trọ, cám ơn bác và hẹn gặp lại bác
vài hôm sau. Trên đường về, tôi
kể lại cho Trang nghe về hoàn cảnh của gia
đ́nh tôi. Tôi đi lính xa nhà, mỗi
năm chỉ về phép một đôi lần.
An B́nh, đứa em gái duy nhất
của tôi ở Nha-Trang với cha tôi. Ông là
một thầy giáo, ngày xưa dạy ở trường
Pháp-Việt lúc tôi mới lên ba. Sau ngày về hưu ông
được bà con mời làm chủ tịch hội
đồng xă. Ông bị bắt vào trại cải tạo
Đá Bàn sau ngày Nha-Trang ”giải phóng”, rồi v́ tuổi già
sức yếu, không chịu nổi sự tra tấn, ông
đă chết gần một năm sau đó. Em
gái tôi nối nghiệp cha, sau khi tốt nghiệp ở
trường sư phạm Qui Nhơn, v́ hoàn cảnh gia
đ́nh, được về dạy ở Nha trang. Có lần tôi về phép, em kể cho tôi nghe về
mối t́nh của em với một chàng sinh viên sĩ quan
không quân. Em có đưa cả tấm
ảnh cho tôi xem và hẹn sẽ giới thiệu với
tôi khi chàng ta ở Mỹ trở về. Em
lo lắng v́ anh là người Bắc di cư, công giáo, không
hiểu có khó khăn ǵ cho cuộc hôn nhân. Tôi bảo nó
yên tâm, ba tôi theo tây học, nên ông quan
niệm về tôn giáo rộng răi lắm.
Sau khi cha tôi vào trại cải tạo, căn nhà của
chúng tôi bị chính quyền mới tịch thu
để làm hợp tác xă mua bán. Em tôi không được
tiếp tục dạy học nữa nên ra Xóm Bóng ở chung với cô bạn học nối khố
tự ngày xưa, chắt chiu số tiền c̣n dành dụm
được để thăm nuôi cha tôi. Ngay
sau ngày Sài-g̣n mất, em có vào t́m thăm tôi và người yêu
của cô. Hơn hai tuần đi
thăm hỏi khắp nơi, em tôi về nằm khóc
cả mấy ngày liền, nói với tôi là người yêu
của nó đă chết mất xác ở chiến
trường Long-Khánh. Tôi an ủi
em tôi, bảo nó về Nha-Trang cố gắng thay tôi lo
lắng cho cha, chờ ngày cha và tôi trở về sum họp.
Tôi vào tù hơn sáu tháng, hai lần được phép
gởi thư về nhà, vẫn không
thấy em gái hồi âm. Cho măi trước khi
được chuyển ra Bắc, tôi mới nhận
được thư của cô bạn thân của nó, báo tin
là nó không kiếm được việc ǵ làm, túng quẫn,
buồn chán, nên đă uống nguyên một ống thuốc
ngủ. Gia đ́nh cô chở vào bệnh
viện, nhưng không cứu được, v́ không t́m ra
thuốc giải.
Chị Trang suy nghĩ miên man và như chợt
nhớ ra được điều ǵ. Chị
bảo khi c̣n sống, anh Bá không đi làm vào ngày chủ
nhật. Anh đi lễ nhà thờ
rồi ra mộ suốt cả ngày. Chính
anh đă dành dùm tiền bạc thuê người xây lại
ngôi mộ và mua phần đất dành cho ḿnh. Khi chôn cất anh xong, chị t́m thấy một
tập nhật kư dấu kỹ dưới đầu
giường. Chị vẫn c̣n
để trên bàn thờ, chờ ngày giáp năm th́
đốt luôn. Chị bảo tôi cùng về nhà với
chị, để chị trao lại cuốn nhật kư,
kỷ vật duy nhất của một người cùng sống
chung trong cảnh khốn cùng với cha
con chị trong gần ba mươi năm, và bây giờ
mới biết đó là người yêu của cô em gái
thương quí của tôi.
Chị bảo taxi dừng lại trước một ngơ
tắt phía sau ga xe lửa. Tôi trả
tiền, theo chị băng qua hai con
đường sắt, đi quanh co theo mấy con hẻm
th́ đến nhà. Tôi xin phép thắp
hương trước bàn thờ của ba chị và Bá,
trên một cái kệ nhỏ bằng gổ treo trên vách.
Tôi khẩn khoản xin chị nhận một
số tiền để chăm sóc ngôi mộ của ông
cụ, em gái tôi và Bá, một ít làm vốn buôn bán để
đỡ vất vả hơn xưa. Tôi
xin nhận Trang là cô em kết nghĩa và từ nay Trang là
ngưỡi thân quen duy nhất của tôi c̣n lại ở
Nha-Trang. Chia tay, tôi đi bộ
về khách sạn, cầm theo cuốn nhật kư trên tay, mà
cứ tưởng như ḿnh vừa nhận một món quà
quí giá của người thân gởi về từ một
cơi nào đó thật xa xăm.
Ngày 2/5
Vết thương c̣n đau đớn và máu
c̣n thấm đỏ qua mấy lớp băng, vậy mà
ḿnh bị người ta đuổi ra khỏi Tổng Y
Viện Cộng Ḥa, trong hoàn cảnh tứ cố vô thân.
May mắn nhờ một ân nhân nghèo
nhưng lại giàu ḷng bác ái, đùm bọc, nuôi nấng và
chăm sóc vết thương.
Nhiều lần, trong vực sâu tuyệt
vọng, ḿnh không muốn sống thêm một ngày nào nữa,
nhưng ḷng ḿnh lúc nào cũng hướng về chúa Kitô, và
xin phó thác tất cả ở nơi Ngài.
…….
Ngày 20.6
Cuối cùng, th́ ḿnh quyết định
trở về Nha-trang, bởi lẽ ḿnh không c̣n có một
chỗ nào khác để trở về. Ḿnh
về đây để t́m lại những kỷ niệm
đẹp đẽ nhất của đời ḿnh,
của những ngày ḿnh c̣n có An-B́nh. Từ
ngày gặp An-B́nh, ḿnh nghĩ là ḿnh đă thuộc về
Nha-Trang, miền thùy dương rạt rào thơ mộng
này. Đau đớn thay, hôm nay ḿnh
chẳng phải là ḿnh ngày trước, mà chỉ là một
kẻ tật nguyền thê thảm. Ḿnh sẽ không bao
giờ gặp lại An-B́nh, mà chỉ mong về đây
để được sống với h́nh ảnh
của nàng
Ngày 08/7
Ngày hôm nay có lẽ là ngày đau đớn nhất
trong đời ḿnh. Đau đớn
hơn cả cái ngày ḿnh tỉnh dậy trong quân y viện và
biết ḿnh trở thành một người tàn phế.
Ḿnh lê lết khắp nơi hỏi thăm tin
tức An-B́nh, được biết là em đă quyên sinh.
An-B́nh ơi, xin em hăy tha thứ cho anh.
Trong vận cùng của một đất nước mà anh
chỉ là một thằng lính hèn mọn nhỏ nhoi, làm sao
có thể giữ được bầu trời Nha-Trang này
cho em, và cho những kỷ niệm của chúng ḿnh..
Một hồi chuông nhà thờ làm tôi giật
ḿnh. Ngẫng đầu lên mới
biết ḿnh đang đừng trước nhà thờ
đá. Tôi thẩn thờ bước lên những
bậc “tam cấp”, đến trước tượng
Đức Mẹ. Tôi là người ngoại đạo,
không biết phải cầu nguyện như thế nào. Tôi
chấp hai tay trước ngực, kính cẩn xin Thiên Chúa
Từ Bi và Đức Mẹ Maria cứu vớt linh hồn
của hai người hoạn nạn và xin cho họ được
cùng phục sinh với Chúa để t́nh yêu của họ
măi măi vĩnh hằng trong một thế giới b́nh an,
không c̣n có hận thù.
Tôi không c̣n ư định dời ngôi mộ em
tôi về bên cạnh cha mẹ tôi. Tôi về quê,
quỳ trước mộ cha mẹ tôi để xin phép
được xây lại hai ngôi mộ của em tôi và Bá chung trong một ṿng thành. Không ai
có quyền chia rẽ họ thêm một lần nữa, dù
bây giờ chỉ c̣n là một thế giới vô h́nh.
Cũng như lần trước, ngày cuối cùng, tôi thuê
xích lô đi một ṿng dọc theo con
đường Duy Tân cũ. Con đường đẹp
nhất của Nha-Trang. Những cơ sở công quyền,
những dinh thự của cán bộ bây giờ
đựơc dựng lên nguy nga đồ sộ. Nh́n lá cờ màu đỏ trên mấy nóc nhà,
bỗng dưng tôi lạnh toát cả người. Chẳng lẽ những thay đổi “to
lớn”ấy mà phải xây trên máu xương, trên những
đớn đau, chia ĺa thảm khốc của bao nhiêu
thế hệ đă từng một thời góp sức
tạo nên cái thành phố hiền ḥa thơ mộng này.
Bỗng chốc, tôi không c̣n nh́n thấy thành
phố Nha-Trang đâu nữa. Trước
mắt tôi bây giờ chỉ c̣n là một băi tha ma, dài ra, vô
tận. Tôi nghe trong gió văng vẳng
tiếng đàn dạo bài Nha-Trang, mà ngày xưa đài phát
thanh Nha-Trang dùng làm nhạc hiệu mở đầu.
Tôi nhớ tới cái chết thảm khốc của
nhạc sĩ Minh-Kỳ, tác giả bản nhạc quen
thuộc một thời này, ông cũng đă bị giết
vào tháng 8/75, khi cùng bị nhốt chung
với tôi trong trại tù cải tạo An Dưỡng, Biên
Ḥa.
Phạm Tín An
Ninh