Chuyện
Người Lính Nghĩa Quân Thờ H́nh của Chính Ḿnh
Rừng thiêng sơn trại không ḥ trận
Chỉ thấy tiêu điều những bóng ma
Viên Linh
Tết năm đó tôi về Việt Nam ghé thăm bạn
bè. Đến miền Trung, tôi được một
người bạn rủ thăm mộ một người
bạn khác. Từ một thị trấn miền biển,
chúng tôi ra quốc lộ Một, theo hướng bắc,
lên một đèo nhỏ, đến đỉnh đèo, thay
v́ xuống dốc, bạn tôi cho xe chạy vào một
đường ṃn dọc theo chân núi. Đây là một vùng
hoang vắng, cằn cỗi, toàn đá, cây lưa thưa,
cao không quá đầu người. Chiếc xe gắn máy cứ
nhảy chồm chồm, như con ngựa trở chứng,
mấy lần suưt ngă xuống vực. Cuối cùng chúng tôi cũng
đến được một nơi, hơi bằng phẳng,
có mười mấy ngôi mộ đất, nằm rải
rác trên một diện tích khoảng một cái sân lớn. Bạn
tôi chỉ một mô đất có miếng gỗ nhỏ ghi
chữ Tư bằng hắc ín bạc màu.
- Nó nằm đây!
Chúng tôi lấy nhang, đốt lên, đứng trước
mồ bạn, khấn vái mấy câu. Trong giây phút tưởng
niệm, tôi như h́nh dung rơ bạn tôi trong những ngày cùng
ngồi chung lớp, chung trường. Bạn tôi vui
tươi, khỏe mạnh, yêu đời, lúc nào cũng
nói chuyện tếu được, khiến cho dù ai có chuyện
buồn cũng phải bật cười… Rồi cảm
tưởng như tất cả những người nằm
trong các ngôi mộ rải rác chung quanh đều là bạn
thân thiết, vong linh họ đang đứng bên cạnh,
ṭ ṃ nh́n xem chúng tôi làm ǵ? Ư nghĩ đó khiến tôi thêm ngậm
ngùi, thương cảm.
Tôi khấn lầm thầm. “Chúng tôi rất hănh diện có
được những người bạn đă chọn
một cái chết hào hùng để bảo vệ tự do,
bảo vệ đồng bào. Sự hy sinh của các bạn
càng thêm ư nghĩa sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm
đóng Miền Nam. Dân chủ, tự do không c̣n nữa!” Tôi
cũng trấn an người bạn học quá cố của
chúng tôi khi nói về cuộc sống ổn định của
vợ và các con của bạn “Anh em đồng môn luôn t́m
cách an ủi, giúp đỡ chị và các cháu”. Khấn xong,
chúng tôi đem nhang cắm lên tất cả các ngôi mộ.
- Chỉ thằng nầy là dân hành chánh, c̣n mấy cậu nằm
chung quanh toàn quân nhân. Nhảy dù với nghĩa quân.
- Có lẽ phải xây một cái khung cho tất cả các
ngôi mộ nầy, rồi đổ đất lên mới
không bị mồ xiêu mả lạc.
- Lần trước, lên đây, tôi có gặp anh chàng sống
một ḿnh trong mái tranh đằng kia, ḿnh có thể nhờ
anh ta lo vụ nầy… Chắc không tốn bao nhiêu.
Mới buổi sáng mà nắng đă gay gắt. Tôi đứng
nh́n quanh. Một bên là núi cao, một bên là sườn núi
thoai thoải, chạy đến một rừng cây xanh có lẽ
là điểm nước, thấp thoáng sau hàng cây là quốc
lộ Một, mấy chiếc xe đang chạy trên một
cây cầu nhỏ, bắc qua một con suối, về mùa
hè nên nước cạn, chỉ thấy lấp loáng ánh nắng
qua những gộp đá nhỏ. Bạn tôi chỉ tay về
hướng bên kia đồi.
- Nhà anh ta dưới tàng cây lớn kia ḱa, nếu để
ư, quá khỏi tàng cây, có cái g̣ cao, giống h́nh người
đang ngồi. Bạn thấy chưa? Đó là cái g̣ mối,
nhưng người ta đồn đăi là mộ của một
cô gái rất linh thiêng. Bây giờ ḿnh thử đến
đó xem sao.
Chúng tôi đi băng qua đồi. Đường rất
khó đi nên phải đẩy bộ chiếc xe gắn
máy, có khi phải khiêng qua những những tảng đá lớn
chắn lối hay những rănh sâu. Cuối cùng th́ chúng tôi cũng
đến nơi. Đó là một căn nhà tranh vách ván, nằm
dưới một cây mít có tàng lớn che gần hết mái
nhà. Sau nhà là một khu vườn vuông vức mỗi cạnh
độ vài trăm thước, trồng cây lưu niên làm
hàng rào, trong vườn là những luống khoai lang, khoai ḿ
và bắp, góc vườn có một giàn bầu hay bí ǵ đấy.
Nhà vắng tanh. Chúng tôi lên tiếng.
- Có ai trong nhà không?
Một người đàn ông từ sau bếp bước
ra.
- Có tôi!
Anh ta khoảng trên bốn mươi, người hơi ốm
nhưng rắn rỏi, da sạm nắng, tóc cắt ngắn,
đôi mắt chơn chất sáng lên niềm vui của kẻ
sống cô độc được có người đến
thăm.
- Chào quí anh. Quí anh có chuyện ǵ mà lên chỗ hẻo lánh nầy?
- Chúng tôi đi thăm mấy cái mộ đằng kia, nhân
tiện ghé thăm anh, định nhờ anh chút chuyện.
Anh ta cười, đưa hàm răng vàng khè v́ khói thuốc.
- Lúc mấy anh đi lên, tôi đă thấy rồi. Vậy chứ
mấy anh có thân nhân, bạn bè ǵ nằm ở đó?
- Có ông bạn học… Lên thăm, và định xây cho nó cái
mộ cho tươm tất, để mộ đất,
lâu ngày, gió mưa trôi hết, sau nầy t́m không ra.
- Mời hai anh vô nhà ngồi uống nước.
Chúng tôi bước vào. Đó là một ngôi nhà tranh nhỏ tầm
thường. Nhà ba gian, giữa là bàn thờ, có tấm màn
che. Bên trái là chiếc giường nhỏ, có lẽ là chỗ
ngủ của chủ nhà, bên gối tôi thấy có mấy
quyển sách, v́ phép lịch sự tôi không nh́n kỹ sách ǵ
nhưng như thế chứng tỏ chủ nhà là người
có học và có thú vui đọc sách. Bên phải là một
căn buồng đóng cửa. Trước bàn thờ là bàn
nước bằng gỗ mộc, cũ kỹ, để
một b́nh tích trong trái dừa khô, giúp cho nước giữ
nóng được lâu, mấy cái ly thủy tinh trên một
dĩa lớn. Có bốn cái ghế dựa để tiếp
khách. Anh kéo ghế mời chúng tôi rồi xuống bếp thổi
lửa nấu nước, pha trà. Chúng tôi ngồi nh́n quanh,
hỏi vọng xuống bếp.
- Anh sống một ḿnh sao?
Anh ta đi lên nhà trên.
- Tôi sống một ḿnh. Cũng hơn mười năm.
- Không buồn à? Kiếm một bà về ở chung để
có người chuyện tṛ, ốm đau c̣n nương tựa
nhau.
- Tôi có vợ rồi, nhưng vợ mất, tôi ở vậy…
thờ vợ.
Tôi pha tṛ.
- Anh có hiếu với vợ dữ! Cô vợ anh chắc sẽ
mỉm cười nơi chín suối khi có được
người chồng chung t́nh như anh.
Anh ta chỉ cười, xuống bếp lấy ấm
nước lên, mở nắp b́nh tích, bỏ trà, chế
nước sôi vào.
- Sống một ḿnh cũng quen. Xuống phố thấy xe
cộ, người nói, ồn ào, chỉ muốn về nhà
cho yên tĩnh.
- Đất vùng nầy cằn cỗi, sao vườn anh
tươi tốt vậy?
- Phải xuống suối móc śnh lên đắp, mấy
đời như thế nên mới trồng trọt
được. Mấy anh đi thăm mộ ai ở
đằng đó?
- Thăm người bạn, tử trận hồi bảy
lăm. Bởi vậy mới định nhờ anh…
Anh ta ngồi lên giường, gác tréo chân, thong thả vấn
điếu thuốc lá.
- Thỉnh thoảng tôi có ghé thăm chừng, thắp nhang,
dọn cỏ mấy ngôi mộ đó. Mấy anh định
xây cho mộ nào?
- Có ông bạn học nằm đó. Cũng định xây
luôn cái khung chung quanh tất cả các ngôi mộ rồi
đắp thêm đất lên cho mưa lũ khỏi trôi mất.
Anh có thể giúp được không?
- Có phải mấy anh định xây mộ cho ông phó hành
chánh nằm đó không?
- Sao anh biết?
- Tôi là lính pḥng thủ quận hành chánh. Nghĩa quân tụi
tôi với ông phó thân lắm. Đúng ra th́ ông phó không có nhiệm
vụ tác chiến, thiếu tá quận trưởng bảo
ông đưa gia đ́nh về Sài g̣n, mục đích để
khỏi phải đánh nhau, nhưng ông phó chỉ gửi vợ
con đi c̣n ông ta th́ ở lại. Ông phó bảo đă tốt
nghiệp sĩ quan Thủ Đức mà lại trốn chui
trốn nhủi th́ nhục lắm. Mời mấy anh dùng
trà.
Vẻ dè dặt không c̣n trong cách đối xử của
anh ta.
- Các anh yên tâm. Nếu các anh muốn xây thêm cái “khuỷnh” cho
tất cả các ngôi mộ th́ tôi cũng xin góp chút công. Tôi
chỉ tính vật liệu thôi, không tính tiền công. Bây giờ
tôi đề nghị thế nầy. Các anh ở lại
đây nghỉ trưa, chúng ta sẽ có th́ giờ bàn lại
kỷ hơn chuyện mồ mả. Tôi xin mời các anh một
bữa trưa. Chỉ kẹt là không có rựợu, chớ
c̣n mồi th́ lúc nào cũng sẵn sàng. Bắt con gà rồi
quơ bậy mớ rau thơm là có ngay một nồi cháo.
Hai anh cứ ngồi chơi, đợi tôi. Hay là ra sau hè, có
gió, mát hơn ở trong nhà.
- Tụi tôi đâu biết nhậu, có cháo gà mà húp cũng
đủ khoái rồi.
Hai đứa tôi ra sau hè, tôi nằm đong đưa trên
vơng, người bạn ngồi trên cái ghế dài, tựa
vào vách nhà. Gió biển thổi lên mát rượi, mấy con
chim sâu hót trong bụi rậm, tiếng gió ŕ rào trong cảnh
vắng vẻ, tĩnh mịch… Đúng là cơi thần tiên
nơi góc núi. Hai đứa tôi chuyện tṛ linh tinh một
lúc, độ hơn nửa giờ th́ anh ta bưng nồi
cháo ra, đặt trên một cái bàn nhỏ, thêm mớ chén,
đũa, vậy là chúng tôi vừa ś sụp vừa chuyện
tṛ.
- Bây giờ anh kể vụ bảy lăm, ở đây, xảy
ra những chuyện ǵ? Tụi tôi chỉ nghe mang máng có
đánh nhau dưới cầu kia, anh có tham dự không?
- Có chứ! Khi có vụ di tản từ Cao Nguyên xuống
th́ ở quận, tụi tôi được lịnh ứng
chiến. Ông phó hành chánh, tức bạn của hai anh, dẫn
trung đội nghĩa quân tụi tôi lên chốt trên kia. Tụi
tôi đóng ở đó được mấy ngày th́ có một
đại đội dù đến tăng cường. Ông
phó phối hợp với bên dù cho gài ḿn dưới cầu
đằng kia, chờ tụi hắn đến th́ giật
sập cầu và chận đánh. Một toán nằm dọc
bờ suối, phục ở đó, chờ địch. Tôi
và một anh nhảy dù lo việc giật ḿn. Nhiệm vụ
tôi hễ bấm xong ḿn th́ lên chỗ g̣ kia nằm, theo dơi và
gọi máy báo cáo khi thấy địch xung phong lên núi. Thế
rồi, địch xuất hiện, chạy một dọc
cả chục chiếc xe lớn chở đầy bộ
đội. Tôi bấm ḿn giật sập cầu, mấy anh
nhảy dù thụt M72, cháy mấy chiếc xe đi đầu,
rồi xả súng như mưa. Từ ngày tôi đi nghĩa
quân, thỉnh thoảng có hành quân lùng sục du kích, nhưng
việt cộng chỉ bắn mấy phát rồi bỏ chạy,
chứ chưa thực sự đụng độ bao giờ.
Đến lúc đó tôi mới biết thế nào là đánh
nhau. Ôi thôi! Súng nổ khắp nơi, rầm trời, rầm
đất. Tôi ḅ lên chỗ g̣ mối nằm ḍm chừng
để báo cáo t́nh h́nh. Đến chiều th́ xe tăng tụi
nó đến. Đại bác của xe tăng thụt phe ta
chạy tứ tán, phải núp sau mấy tảng đá, hi vọng
tụi nó xung phong theo bờ suối th́ nhào ra. Vậy mà
chúng chỉ bắn cầm chừng, đến tối,
chúng vào giở nhà dân bắt cầu, suốt đêm, sáng hôm
sau chúng đi mất tiêu. Coi bộ chúng không thiết
đánh nhau, chỉ lo chạy vô phía Nam mà thôi. Sáng đó tụi
tôi cũng thu dọn chiến trường, chôn mấy
người chết, băng bó người bị
thương rồi cũng di chuyển theo đường
núi về hướng Nam. Đến tháng Năm th́ tan hàng,
ai về nhà nấy. Tôi về tŕnh diện chính quyền cộng
sản, đi học tập, nghĩa là đi nghe chửi,
lao động sản xuất rồi được về
nhà. Tôi về đây phụng dưỡng ông bà già.
Được năm năm hai ông bà qua đời, tôi vẫn
ở đây lo hương khói, chăm nom mồ mả cha mẹ,
vợ con cho đến bây giờ.
Ăn xong chúng tôi phụ nhau dọn dẹp chén đũa.
Anh đem b́nh trà và ly ra.
- Trưa nào tôi cũng ra đây làm một giấc. Gió mát lắm!
Tôi nh́n lên đồi, thấy cái g̣ mối giống h́nh
người ngồi xây lưng về phía chúng tôi.
- Tôi có nghe kể về chuyện cô gái chết nhưng linh
thiêng lắm. Anh biết chuyện đó không?
- Chuyện linh thiêng th́ tôi không tin, v́ đôi khi chỉ là sự
trùng hợp t́nh cờ. Nhưng chuyện về cô gái đó
th́ tôi biết rơ. V́ nó xảy ra cùng lúc với vụ đụng
độ mà tôi vừa kể cho mấy anh nghe đó.
- Anh có thể kể vắn tắt cho tụi nầy nghe
được không?
- Chuyện chẳng có ǵ lạ lùng cả. Lúc đụng
độ th́ cái g̣ mối chưa cao và to như vậy…
Tôi đoán chừng.
- Sau đó cái g̣ mới nổi lên giống h́nh cô gái ngồi
nên người ta thêu dệt nên một chuyện linh thiêng,
phải không?
- Cũng gần như thế. Trong toán nghĩa quân, có một
anh chàng là chồng của cô gái ở nhà nầy, nên ông phó
giao cho hai vợ chồng cái chốt đằng kia, canh chừng
địch. Coi như vừa làm việc nhà vừa làm việc
nước. Hai người mới cưới nhau
được có nửa năm.
Anh ta trầm ngâm.
- Cô ta có bầu được ba bốn tháng. Lúc đụng
độ, cô ta không ở trên chốt mà ở nhà, ở
đây. Cô với cha mẹ nấp dưới hầm nên vẫn
b́nh yên. Sáng hôm sau, sau vụ đụng độ, cả
đơn vị, dù và nghĩa quân theo đường núi
vào Nam. Anh chàng nghĩa quân có hẹn với vợ là sẽ
quay lại. Nếu t́nh h́nh khó khăn, nguy hiểm th́ anh ta sẽ
về ban đêm, điểm hẹn là cái g̣ đó. Thế
nên, khi thành phố bị địch chiếm, làng xă bị
kiểm soát, cô ta không hi vọng gặp chồng ban ngày nên
buổi tối cô ta thường mang chiếc vơng, mùng mền
ra ngoài chốt kia ngủ để chờ chồng. Thường
th́ cô ngủ lại ở đó đến gần trưa mới
vô. Cha mẹ thấy cô mang bầu, thương con, cứ
để cho cô ngủ, khi nào thức dậy th́ vô nhà. Bữa
đó đến chiều, không thấy cô vào, bà mẹ mới
ra đánh thức con. Không ngờ ra đến nơi th́ chỗ
con gái nằm, mối đă đùn lên ngập xác cô, như một
nấm mộ. Hai ông bà chưa biết tính sao th́ hôm sau, mối
phủ cao lên nữa, đành để vậy. Hôm trước
đó, cô gái đă than là trong người khó ở, bị sốt,
không chịu ăn uống. Cha mẹ cản ngăn
nhưng cô vẫn lên chốt ngủ chờ chồng. Có lẽ
cô bị trúng gió hay trở bịnh bất ngờ, không ai cứu
giúp nên phải chết, vừa lúc mối đùn g̣ ngập
luôn xác của cô.
- Nhưng nghe nói cô linh thiêng lắm, anh có biết tại sao
không?
- Số là một năm sau đó, có chuyện xảy ra
dưới quốc lộ, chỗ đường ṃn mà mấy
anh dẫn xe vô lúc năy. Chuyện như thế nầy. Một
buổi tối, trời mưa to, có chiếc xe khách chạy
lên đèo. V́ mưa quá lớn không thấy đường
sá ǵ cả, anh tài xế phải lái rất cẩn thận.
Lúc xe vừa định quẹo cua, đổ đèo th́ thấy
một chị đàn bà, bụng mang bầu, đi băng
qua đường. Anh tài xế hoảng kinh, vội thắng
gấp rồi tḥ đầu ra cửa xe chửi thề chị
đàn bà là đui, là ngu. Chị ta không nói năng ǵ cả,
cứ lẳng lặng đi qua rồi khuất trong
mưa. Chửi xong anh ta cho xe chạy. Nhưnh chưa kịp
sang số th́ thấy một chiếc xe tải chết máy,
nằm lù lù một đống, không đèn đóm, không dấu
hiệu ǵ cả. Nếu không v́ chị đàn bà băng qua
đường mà phải thắng gấp, anh ta đă cho
xe húc vào đít chiếc xe tải chết máy nằm đó rồi,
chắc chắn là xe phải rớt xuống đèo. Thật
hú vía! Anh tài xế xuống xe, cứ hướng chị
đàn bà đă đi khuất mà vái lạy rối rít. Không
hiểu nghe ai kể mà anh tài xế, ít lâu sau, ra kêu người
nhờ xây cái miếu chỗ khúc quanh suưt xảy ra tai nạn.
Không may cho anh ta, mới đổ gạch xuống đó
th́ gặp mấy ông công an xă đi ngang. Họ dừng lại
hỏi lư do xây miếu, hỏi giấy phép. Anh tài xế kể
lại chuyện xảy ra hôm trước, nhưng chẳng
ai tin. Vụ xây miếu bị ngưng. Mấy ông công an kéo
nhau lên chỗ g̣ mối, ông trưởng công an xă rút súng bắn
vào cái mộ để thị uy “Chết là hết. Không có
ma quỉ, thần thánh ǵ cả. Cái mộ nầy sẽ bị
san bằng nay mai” V́ mấy ông đó đi nhậu về,
say quá nên khi xuống đồi, xe bị lọt hố, ông
trưởng công an xă bị găy tay. Thế là người ta
đồn rầm lên là ông ta bị “Cô” vật.
- Tôi có đọc một truyện ngắn tương tự.
Có lẽ người ta dựa theo đó, cùng với ḷng
thương cảm cô ta mà thần thánh hóa câu chuyện
để người đời truyền tụng.
Anh ta như không để ư lời tôi, kể tiếp.
- Ít lâu sau, anh tài xế được nhắn ra, cho phép tiếp
tục xây cái miếu, nhưng không ai dám giúp v́ sợ bị
bắt. Vừa may gặp tôi, tôi thầu luôn. Xây xong miếu,
tôi vào chùa, xin thầy trụ tŕ viết cho một bài vị
bằng chữ nho. Phần trên để mấy chữ thật
lớn Anh Hùng, Liệt Nữ. Dưới đó là tên cô gái
và tên mấy anh lính chết trận. Tôi đem đến thợ
đá nhờ chạm cho một bia nhỏ để thờ
trong miếu. Thành ra, ngày rằm, mồng một, xe cộ
ngang qua đấy thường dâng lễ vật, khấn
vái, xin “Cô” phù hộ đi đường b́nh an.
- Bộ anh nhớ hết tên mọi người chết
trên đó sao?
- Nghĩa quân là đồng đội, cùng đơn vị
bao nhiêu năm. Với các anh bên nhảy dù, sống với
nhau hàng tuần lễ, chỉ cần nghe tiếng nói tôi cũng
biết là ai, tên ǵ. Vả lại phải nhớ tên mấy
người đă chết, để sau nầy thân nhân
đi t́m mà chỉ cho họ.
Thấy trời đă về chiều, tôi bàn đến chuyện
xây mả, anh ta đề nghị.
- Nên xây từ từ, không cho chính quyền biết, hết
tiền tôi sẽ ghé nhà quí anh lấy thêm.
- Anh đừng lo, tôi là Việt kiều, anh cứ tính công
vào cho ṣng phẳng. Chẳng bao nhiêu mà ngại. Tôi để
tiền lại, anh cứ ghé bạn tôi mà lấy.
Tôi nhờ anh ta đưa chúng tôi ra thăm g̣ mối là mộ
của cô gái. Trông không khác bất cứ g̣ mối nào ở
trong rừng, nhưng rất to, kích thước cũng cỡ
một ngôi nhà nhỏ. Đứng gần th́ không h́nh dung
được, nhưng nếu lùi ra xa, đi ṿng phía bên
kia, sẽ thấy giống h́nh một người đàn
bà với mái tóc dài, ngực lớn, ngồi xây mặt vô
núi. Có một cái nấm nhỏ hơn, giống đứa
bé ngồi tựa vào ḷng mẹ. Tôi hỏi.
- Trông giống Ḥn Vọng Phu, nhưng sao Ḥn Vọng Phu nầy
lại xây mặt vô núi?
Anh ta có vẻ đăm chiêu.
- Hai mẹ con chờ người trong núi ra.
Buổi chiều âm u, cảnh vật im ĺm, tôi cảm thấy
rờn rợn, tưởng chừng cái nấm mộ vĩ
đại giống h́nh người kia cũng có linh hồn,
có cảm giác và đang lắng nghe chúng tôi chuyện tṛ. Tôi
nói.
- Đáng lẽ phải đem nhang ra đây…
- Vô nhà cúng cũng được. Trong đó có thờ cô ta.
Khi vào nhà, chúng tôi xin được thắp nén nhang, lễ
trước bàn thờ tổ tiên, thân nhân của chủ
nhà. Anh ta vén tấm màn che bàn thờ lên và lấy nhang, quẹt
diêm đốt, trao cho chúng tôi. Tôi thấy trên bàn thờ có
để h́nh hai người lớn tuổi, có lẽ là
cha mẹ anh ta. Phía trước là h́nh một cô gái, diện
mạo b́nh thường, hơi mập, mặt tṛn, nụ
cười hiền lành, chất phác. Cạnh h́nh cô ta là h́nh
một người thanh niên.
- Có phải h́nh thờ bên cạnh là chồng cô ta không?
- Đúng rồi! Vợ chồng phải thờ bên nhau cho
có đôi.
Tôi nh́n h́nh người đàn ông, thấy ngờ ngợ
như gặp ở đâu? Nghĩ măi một lúc, quay nh́n anh
ta… hóa ra là h́nh của chính anh.
- Ủa, anh chưa chết mà sao lại thờ, hay là h́nh
người khác?
- H́nh của tôi đó! Cô ta là vợ tôi. Khi cô ấy mất,
tôi về đây phụng dưỡng cha mẹ vợ.
- Nhưng sao anh lại thờ chính ḿnh?
Anh cười buồn, đôi mắt xa xăm.
- Khi học tập cải tạo, cán bộ bảo rằng
nước Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n nữa. Tối
đó, tôi nằm khóc suốt một đêm. Tôi biết, thế
là hết. Đất nước tôi, quê hương, bản
quán của tôi đă bị người ta chiếm mất rồi!
Cán bộ nói rơ là chúng tôi đáng tội chết, chúng tôi
không c̣n là người dân nước Việt Nam nữa.
Chúng tôi sẽ bị kiểm soát, theo dơi như những
người tù.
Bạn bè, đồng đội, đứa nào cũng buồn,
không muốn gặp mặt nhau! Tôi như người lính
duy nhất c̣n sống sót, lang thang giữa một vùng quen
thuộc nhưng không c̣n nơi để trở về. Cảm
tưởng rơ rệt nhất là khi tôi đứng trước
quận hành chánh nh́n vào. Quận đường vẫn
nguyên vẹn, vọng gác trước cổng, nơi tôi
thường ngồi gác vẫn c̣n đó, nhưng tôi không
c̣n quyền yêu thương nơi đó nữa. Tôi đă bị
xua đuổi khỏi quê hương tôi.
Tôi sống một ḿnh ở đây nhưng lại cảm
thấy được gần gũi với bao người
thân yêu chung quanh. Thỉnh thoảng tôi ra ngồi tâm sự với
vợ con tôi ở g̣ mả ngoài kia. Khi th́ tôi qua bên kia đồi,
cạnh các ngôi mộ, chuyện tṛ với đồng đội
nằm dưới đó. Tôi nghe được, hiểu
được những ǵ các bạn nói với tôi. Tôi nghe cả
tiếng cười đùa của họ, nghe cả tiếng
lách cách của súng đạn va chạm nhau, ngửi
được cái mùi lính, mùi quen thuộc của mồ hôi
thấm vào áo trận. Tôi ngồi đó để cảm thấy
được an toàn đồng đội như những
lúc hành quân, những ngày đóng chốt cũng như khi
đụng độ với giặc.
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước
Việt Nam Cộng Ḥa thân yêu của tôi.
Tôi để h́nh tôi trên bàn thờ là coi như ḿnh
đă chết theo với nước Việt Nam Cộng Ḥa
của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói
cho đồng đội, cho cha mẹï, vợ con. Khi nào thực
sự nhắm mắt th́ tôi đă có sẵn cái huyệt mộ,
gần vợ con tôi, ngoài kia.
Phạm Thành Châu